Thuyên tắc động mạch tử cung (UAE) gần đây được biết đến như là phương pháp mới điều trị u xơ tử cung, đây là một kỹ thuật ít xâm lấn, dùng xquang để làm tắt đi nguồn cung cấp máu cho nhân xơ. Kỹ thuật này còn được áp dụng trong các trường hợp chảy máu đường sinh dục sau sanh, sau tổn thương (chấn thương hay phẫu thuật) hay chảy máu do nguyên nhân ung thư.
Ưu điểm
- Là thủ thuật an toàn và hiệu quả trong bệnh lý u xơ tử cung.
- Thời gian nằm viện ít, chỉ cần nằm lại bệnh viện 01 ngày sau khi làm thủ thuật.
- Mất máu không đáng kể.
- Không cần can thiệp vào ổ bụng.
- Thời gian thực hiện thủ thuật ngắn và không gây mê toàn thân.
- Có tính thẩm mỹ cao vì không có vết mổ lớn.
- Thời gian hồi phục sức khỏe nhanh, khoảng từ 5 – 7 ngày. Trong khi đó, nếu mổ phải từ 6 đến 8 tuần mới làm việc được
Khuyết điểm
- Đang điều trị u xơ tử cung bằng thuốc nội tiết rất khó thực hiện thủ thuật.
- Biến thể giải phẫu hệ mạch tiểu khung, động mạch tử cung (bất thường chổ chia nhánh, vị trí, cấu trúc, hình dáng…).
- Hiệu quả trong điều trị vô sinh còn đang bàn cãi.
Kỹ thuật
- Kỹ thuật này phải được thực hiện tại bệnh viện, người bệnh chỉ cần nằm viện 1 ngày.
- Người bệnh sẽ được dùng thuốc an thần và giảm đau xuống quá trình tiến hành thủ thuật. Tại bệnh viện Từ Dũ, bệnh nhân sẽ được giảm đau trong suốt quá trình thủ thuật với gây tê ngoài màng cứng và duy trì thuốc tê trong suốt 24 giờ tính từ lúc tiến hành thủ thuật.
- Đường tiếp cận động mạnh tử cung dễ dàng nhất là từ động mạch đùi. Ban đầu chúng ta sẽ đưa một catheter vào cố định tại động mạch đùi.
Hình 1: Đâm và cố định catheter vào động mạch đùi phải
Hình 2: Hệ thống mạch máu qua hình ảnh arteriogram
- Trước khi tiến hành thuyên tắc, chụp arteriogram (chụp Xquang động mạch với thuốc cản quang) để trình bày hệ thống cung cấp mạch máu cho tử cung và nhân xơ.
- Chụp chọn lọc động mạch chậu trong trái xác định động mạch tử cung trái.
Hình 3: động mạch chậu trong bên trái
- Chụp siêu chọn lọc động mạch tử cung trái xác định nhánh cấp máu cho nhân xơ bên trái.
Hình 4: động mạch tử cung bên trái
- Sau khi xác định được động mạch tử cung, một lượng nhỏ polyvinyl alcohol (PVA) được bơm chậm với sự hướng dẫn của Xquang. Chất gây tắc mạnh này chỉ được phép tồn tại trong các mạch máu nuôi nhân xơ, chúng sẽ được nêm lại bằng hỗn dịch cầm máu để tránh trào ngược qua các mạch máu khác ngoài động mạch tử cung. Mất một gian lâu, động mạch tử cung dần dần bị tắc.
- Thực hiện các bước tương tự cho bên nhánh phải của động mạch tử cung. Khi cả hai động mạch tử cung bị thuyên tắc hoàn toàn dẫn đến không còn mạch máu nuôi nhân xơ sẽ gây thoái triển nhân xơ.
- Sau khi tiến hành thuyên tắc, cần chụp arteriogram để khảo sát kết quả của toàn bộ quá trình. Dòng máu đến tử cung vẫn sẽ được duy trì qua một số tuần hoàn bàng hệ tự nhiên, nhưng dòng máu đến nhân xơ thì hoàn toàn bị khóa.
- Toàn bộ tiến trình mất khoảng 1 giờ.
- Sau thủ thuật, người bệnh được băng ep nơi đặt catheter động mạch đùi trong vòng 24 giờ, hạn chế nhấc chân phải trong vòng 12 giờ sau thực hiện thủ thuật.
- Hiện tại có nhiều kỹ thuật thuyên tắc khác nhau được ứng dụng tùy theo từng trung tâm. Một số trung tâm sử dụng 2 catheter ở hai động mạch đùi để thuyên tắc hai động mạch tử cung, một số trung tâm chỉ dùng 1 catheter ở động mạch đùi phải vẫn có thể thuyên tắc được hai động mạch tử cung.
Biến chứng
- Biến chứng trầm trọng ít khi xảy ra sau khi thực hiện UAE, xuất hiện < 4% các trường hợp. Sang chấn động mạch đùi, nhiễm trùng và chấn thương tử cung, hình thành cục máu đông, và tổn thương buồng trứng.
- Các trường hợp tai biến nặng dẫn đến tử vong đã được báo cáo gồm 4 trường hợp 3 ở Châu Âu và 1 ở Mỹ. Tại Anh, nhiễm trùng tử cung 10 ngày sau khi thuyên tắc mạch, bệnh nhân phải cắt tử cung nhưng vẫn tử vong do nhiễm trùng huyết sau 2 tuần. Một bệnh nhân tử vong tại Hà Lan sau thủ thuật vẫn do nhiễm trùng. Có hai trường hợp tử vong do thuyên tắc phổi do các cục máu đông hình thành từ chân hay vùng chậu, tuy nhiên thuyên tắc phổi vẫn có thể xảy ra sau một số phẫu thuật phụ khoa khác. Hiện tại vẫn chưa có bằng chứng cho thấy điều trị UAE làm tăng nguy cơ thuyên tắc phổi.
- Khoảng 1% có chấn thương hay nhiễm trùng tử cung đòi hỏi phải cắt tử cung. Nhiễm trùng một số cơ quan vùng chậu khác có thể xảy ra nhưng chưa có trường hợp nào được báo cáo.
- Một số ít trường hợp tổn thương thần kinh tại vùng chậu hay tại nơi đâm catheter, với tỷ lệ < 1 / 200. Tổn thương nơi đâm catheter như tụ máu, chảy máu cũng rất hiếm khi xảy ra.
Vấn đề thường được than phiền nhất là sự tống xuất nhân xơ sau một thời gian dài sau thủ thuật. Hiện tượng này chỉ xảy ra đối với các trường hợp nhân xơ dưới niêm mạc hay nhân xơ trong cơ tử cung mà sát lớp niêm mạc chiếm khoảng 2 - 3 %. Khi mà hiện tượng tống xuất nhân xơ xảy ra, có thể nong và gắp khối nhân xơ qua ngả âm đạo.
- Tia X hướng dẫn chúng ta làm thủ thuật tuy nhiên nó tiềm ẩn một nguy cơ tiềm tàng tích lũy theo thời gian. Hiện tại có nhiều nghiên cứu về sự phơi nhiễm tia X trong quá trình thực hiện UAE, hầu hết các nghiên cứu đều thấy rằng sự phơi nhiễm ở dưới mức có thể gây hại đến sức khỏe cho người bệnh.
- Sau khi thực hiện thủ thuật, lượng máu kinh ở mỗi chu kỳ sẽ giảm, thậm chí một số trường hợp quanh tuổi mãn kinh có thể đi vào thời kỳ mãn kinh.
Tài liệu tham khảo
1.Tood W Thomsen, Central venous catheterization: femoral approach. 2. James B. Spies, Uterine artery embolization, Georgetown University Hospital, lirature review.
Theo Globocan năm 2012, ung thư CTC là ung thư phổ biến đứng hàng thứ ba ở phụ nữ toàn thế giới. Tỉ lệ tử vong đứng hàng thứ tư trong số ung thư ở nữ giới. Ước tính khoảng 500.000 ca mới mỗi năm và khoảng 75% xảy ra ở các nước đang phát triển. Cũng theo Globocan, tại Việt Nam số ca mắc mới là 5,146 ca.
Âm đạo là bộ phận nhạy cảm, rất dễ bị viêm. Viêm âm đạo (Vaginitis) là một loại bệnh phụ khoa khá phổ biến ở chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, có thể xảy ra ngay cả với các bạn gái ở tuổi dậy thì.
Tiểu không kiểm soát khi gắng sức (SUI) là vấn đề sức khỏe gây ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý và chất lượng cuộc sống của phụ nữ, đặc biệt ở phụ nữ tuổi trung niên và tuổi già.
Nhau cài răng lược (NCRL) là một biến chứng hiếm gặp của thai kỳ có khả năng đe dọa tính mạng mẹ và thai nhi. Nghiên cứu “Kết cục thai kỳ NCRL tại BV Từ Dũ” của TS.BS Lê Thị Thu Hà và cộng sự cho thấy, tần suất NCRL tăng 7 lần trong 34 năm qua. NCRL chiếm khoảng 1/7000 trường hợp sinh (1977) và đến năm 2011 là 1/1100 trường hợp.
Chứng co thắt âm đạo, là tình trạng về thể chất hoặc tâm lý có ảnh hưởng đến khả năng của một người phụ nữ khi có bất kỳ hình thức xâm nhập âm đạo nào, bao gồm cả quan hệ tình dục, chèn tampons trong khi hành kinh, và ngay cả việc thăm khám phụ khoa. Điều này được cho là kết quả của một sự co thắt cơ âm đạo không tự ý, làm cho người phụ nữ cảm thấy đau đớn và không thể chịu đựng được bất kỳ loại xâm nhập âm đạo nào, bao gồm cả giao hợp. Trong khi thiếu chứng cứ để xác định rõ ràng cơ nào chịu trách nhiệm cho sự co thắt, các cơ mu-cụt, thường được gợi ý. Những cơ khác như cơ nâng hậu môn, cơ hành hang, cơ vòng âm đạo, cơ cạnh âm đạo, cũng đã được đề nghị.