Chẩn đoán lâm sàng được gợi ý do: rối loạn kinh nguyệt: 73%; ra huyết sau giao hợp: 9,5% kết hợp với những yếu tố tán trợ khác như tuổi sinh hoạt tình dục đầu tiên, số bạn tình, số con, nếp sống (tình trạng kinh tế xã hội, hút thuốc lá…).
Trên thế giới ung thư cổ tử cung là ung thư thường gặp thứ hai ở phụ nữ. Ước tính năm 2002 có 493000 ca mới mắc và 275000 ca tử vong trên toàn thế giới, 6224 ca mới mắc và 3334 ca tử vong tại Việt Nam do ung thư cổ tử cung. Theo ghi nhận ung thư quần thể tại TPHCM năm 2003, ung thư cổ tử cung là ung thư thường gặp thứ hai ở phụ nữ với xuất độ chuẩn tuổi là 16,5/100000.
Khảo sát 40 trường hợp ung thư nội mạc tử cung giai đoạn III – IV được điều trị tại bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 1 năm 2001 đến tháng 12 năm 2005. Chúng tôi ghi nhận: 65% bệnh nhân < 60 tuổi, triệu chứng xuất huyết âm đạo bất thường (90%), tử cung to hơn 8 cm (siêu âm) 53,8%, nội mạc tử cung dày hơn 8 mm (70%). Giải phẫu bệnh chiếm ưu thế là carcinôm tuyến grad III 42,5%. Phẫu thuật cắt được tử cung chiếm 67,5%, di căn hạch chậu 57,5%. Tái phát chủ yếu là tại chỗ tại vùng 54,5%. Thời gian sống còn 3 năm là 24,8%
Bệnh thường được chẩn đoán ở trẻ từ 11- 15 tuổi. Đau bụng và bướu ổ bụng là triệu chứng thường gặp. Bướu bên phải gặp bên phải nhiều hơn bên trái, hai bên 2 trường hợp. Hầu hết bệnh ở giai đoạn I, giai đoạn Iiông , 18% và giai đoạn III, 23%.
Trước đây, liệu pháp nội tiết trong điều trị ung thư vú được hiểu là sự phá vỡ trục estrogen – thụ thể estrogen, bằng cách loại bỏ nguồn tạo ra estrogen (phẫu thuật cắt bỏ hai buồng trứng, xạ trị vào hai buồng trứng), hoặc bằng cách ức chế hay ngăn chặn sự tương tác của estrogen – thụ thể estrogen (bổ sung nội tiết), nhưng dựa trên kết quả những nghiên cứu lâm sàng trong thời gian qua thì liệu pháp nội tiết còn nhắm đến các cặp phức hợp “trục” hormone – thụ thể.
Ung thư vú là loại ung thư thường gặp nhất và gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ, việc phát hiện sớm ung thư vú thông qua tầm soát ở những phụ nữ bình thường sẽ cải thiện đáng kể tiên lượng bệnh. Khám vú và tự khám vú ít tốn kém, nếu được thực hiện đúng cách có thể giúp đỡ người phụ nữ phát hiện sớm, được điều trị sớm và tiên lượng sẽ tốt.
Qua nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang 621 trường hợp tân sinh trong biểu mô cổ tử cung độ II-III được điều trị bằng phương pháp khoét chóp sử dụng vòng cắt đốt điện tại bệnh viện Từ Dũ từ 1/1/2006 đến 31/12/2008, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
Các tiến bộ về kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh và sinh học đã giúp cho ta phát hiện sớm ung thư phụ khoa, các phương pháp điều trị ít xâm hại mà kết quả tối đa đảm bảo sống còn của bệnh nhân lâu dài.