banner-dh-vuot-can-cung-me-02.jpg
banner-dh-vuot-can-cung-me-01.jpg

19/05/2011

Tầm soát tiền sản giật

BS Leona Poon,
Hội Sản phụ kho Hoàng gia Anh, RCOG

Tiền sản giật có ảnh hưởng đến khoảng 2-4% số thai, là nguyên nhân chính gây tử vong mẹ và con. Không có phương pháp nào chứng minh hiệu quả của việc dự phòng tiền sản giật. Tuy nhiên, qua 50 năm nghiên cứu đã cho thấy việc khám thai thường xuyên giúp phát hiện các thai kỳ nguy cơ cao trong tiền sản giật để có thể cải thiện tình trạng cao huyết áp.

Theo dõi sát tình trạng của mẹ và thai nhi để phát hiện sớm các dấu hiệu lâm sàng của bệnh và những hạn chế liên quan đến sự phát triển của thai nhi cũng như tránh các biến chứng nghiêm trọng qua việc can thiệp bằng thuốc hạ áp cũng như cho sanh sớm. Xác định sớm nhóm thai kỳ nguy cơ cao có thể gây nên tiền sản giật rất quan trọng cho các nghiên cứu sâu trong tương lai về vai trò can thiệp của thuốc bắt đầu từ tam cá nguyệt đầu tiên để cải thiện kiểu nhau bám và giảm tỉ lệ bệnh.

Phương pháp truyền thống của tầm soát tiền sản giật là hỏi tiền sử mẹ. Nguy cơ gây nên tiền sản giật ở sản phụ da đen cao hơn da trắng, sản phụ chưa con cao hơn những sản phụ đã có con, người có chỉ số cơ thể cao (BMI), đặc biệt những người có gia đình tiền sử tiền sản giật. Tuy nhiên tầm soát dựa trên tiền sử xác định 30% trường hợp gây nên tiền sản giật và cho tỉ lệ dương tính giả 5%.

Những sản phụ nguy cơ gây nên chứng rối loạn cao huyết áp trong quá trình mang thai thì chỉ số áp lực động mạch trung bình (MAP) và động mạch tử cung (PI) tăng lên và nồng độ plasma protein A có liên quan đến thai kỳ trong huyết tương (PAPP-A) và yếu tố tăng trưởng nhau thai (PlGF) giảm ở tuần thai 11-13. Hơn nữa bệnh nhân có nguy cơ điển hình có thể sẽ gây biến chứng trong lúc sanh bởi sự kết hợp các yếu tố chủng tộc, tăng cân quá mức(BMI), tiền sử bản thân và gia đình có huyết áp cao ảnh hưởng đến MAP, uterine artery PI, PAPP-A and PlGF.

Tầm soát sớm các rối loạn chứng cao huyết áp kết hợp nhiều yếu tố mẹ, MAP, uterine artery PI, PAPP-A and PlGF đặc biệt hiệu quả trong việc phát hiện sớm các dấu hiệu trở nặng của tiền sản giật so với phát hiện trể với tỉ lệ tương ứng là 90%  và 35%. Tầm soát tam cá nguyệt đầu tiên có thể xác định một tỉ lệ cao mang thai gây nên chứng rối loạn về cao huyết áp và người ta ước tính rằng cứ 5 trường hợp mang thai có sàng lọc dương tính thì có 1 trường gây nên chứng rối loạn cao huyết áp. Như tỉ lệ phát hiện cao và giá trị tiên đoán dương tính không thể đạt được bằng phương pháp tầm soát truyền thống của sàng lọc mà phụ thuộc vào tiền sử mẹ. Do đó, nếu kết quả của chúng tôi được xác nhận bởi các nghiên cứu tiềm năng trong tương lai kết hợp để tầm soát có thể được đưa vào chăm sóc thường xuyên để đánh giá ban đầu của bệnh nhân có nguy cơ điển hình cho chứng rối loạn cao huyết áp.

Trích Tài liệu HN Việt - Pháp lần 11, năm 2011