Tại Hoa Kỳ, dị tật ống thần kinh ở thai nhi là một dị tật phổ biến, ước tính khoảng 3.000 trường hợp mỗi năm. Những dị tật này xảy ra do sự khiếm khuyết của phôi thai khi hình thành ống thần kinh. Một số dị dạng thần kinh nghiêm trọng như: khuyết não bẩm sinh, thoát vị não, nứt đốt sống bẩm sinh,... có thể dẫn đến tử vong hoặc khiếm khuyết thần kinh, vận động trong quá trình phát triển của trẻ. Đa số những khiếm khuyết này là do thiếu hụt lượng acid folic khi mang thai.

Nhiễm trùng tiểu là một trong những biến chứng chu sinh thường gặp, ảnh hưởng đến khoảng 8% phụ nữ mang thai. Các bệnh cảnh của nhiễm trùng tiểu trong thai kỳ bao gồm nhiễm trùng tiểu không triệu chứng, viêm bàng quang cấp tính và viêm bể thận. Trong đó, viêm bể thận có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm cho thai phụ như nhiễm khuẩn huyết, đông máu nội mạch lan tỏa và hội chứng suy hô hấp cấp tính. Vì vậy, việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời nhiễm trùng tiểu cho phụ nữ mang thai là rất quan trọng trong quá trình chăm sóc sức khỏe thai kỳ.

Việc bẻ, nghiền viên nén không bao, bao phim, bao đường hoặc mở viên nang giải phóng dược chất tức thì không làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc và giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn [4]. Tuy nhiên, một số thuốc có dạng bào chế đặc biệt được khuyến cáo không được nhai, nghiền hoặc bẻ nhỏ vì điều này có thể làm thay đổi hiệu quả điều trị hoặc gây hại cho người bệnh bao gồm: thuốc có dạng bào chế giải phóng dược chất kéo dài, thuốc bao tan trong ruột, thuốc ngậm dưới lưỡi, thuốc viên sủi, thuốc chứa dược chất có nguy cơ gây hại cho người tiếp xúc, thuốc có khoảng trị liệu hẹp. Ngoài ra, việc nhai, bẻ hay nghiền viên thuốc cần xem xét các khuyến cáo từ nhà sản xuất để tối ưu hiệu quả điều trị. 

Huyết khối tĩnh mạch (VTE) là nguyên nhân chính gây ra bệnh tật và tử vong mẹ trên toàn thế giới. Nguy cơ VTE tăng gấp 5 lần trong thai kỳ và tăng 60 lần trong 3 tháng đầu sau sinh so với phụ nữ không mang thai 1. Vì vậy, tất cả phụ nữ nên được đánh giá yếu tố nguy cơ VTE liên tục trước, trong và sau khi mang thai. Liệu pháp chống đông đường toàn thân được xem là lựa chọn điều trị đầu tay cho hầu hết các trường hợp và nên được bắt đầu khi có chẩn đoán. Heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH) và heparin không phân đoạn được ghi nhận làm giảm tỷ lệ tử vong và tái phát bệnh trong thời kỳ mang thai và hậu sản. Trong đó, LMWH (bao gồm Enoxaparin, Dalteparin) có ưu điểm hơn đối với việc điều trị ngoại trú.

Tân sinh biểu mô nội mạc tử cung (Endometrial Intraepithelial Neoplasia – EIN) hoặc tăng sinh nội mạc tử cung không điển hình (Atypical Endometrial Hyperplasia – AEH) thường là tổn thương báo trước của ung thư biểu mô tuyến nội mạc tử cung. Phẫu thuật cắt tử cung hoàn toàn là phương pháp điều trị triệt để đối với bệnh cảnh EIN-AEH. Tuy nhiên, phẫu thuật cắt tử cung không phải là chiến lược điều trị tối ưu đối với một số bệnh nhân. Ở những bệnh nhân EIN-AEH điều trị bảo tồn tử cung, cần phải được chỉ định liệu pháp progestin và theo dõi chặt chẽ suốt quá trình điều trị.

Khi đã định danh được tác nhân gây bệnh và có kết quả kháng sinh đồ, giữa các kháng sinh có hiệu quả ngang nhau thì cần đánh giá trên các tiêu chí về độ an toàn, chi phí, sự thuận tiện và tính sẵn có của thuốc tại cơ sở y tế để có thể lựa chọn sử dụng kháng sinh phù hợp.

Tổ chức Mãn kinh Bắc Mỹ (NAMS – North American Menopause Society) khuyến nghị cập nhật sau lần đánh giá khoa học kể từ năm 2015. Công bố này hướng đến việc kiểm soát các triệu chứng không do sự thay đổi nội tiết tố như bốc hỏa và đổ mồ hôi ban đêm, xảy ra ở 80% phụ nữ mãn kinh không can thiệp điều trị, công bố trong Tạp chí Tổ chức Mãn kinh Bắc Mỹ số tháng 6.

Một cuộc thử nghiệm lâm sàng quy mô lớn ở nhiều quốc gia, do Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ tài trợ, đã chỉ ra rằng sử dụng kháng sinh azithromycin uống một liều duy nhất có thể làm giảm 1/3 nguy cơ nhiễm khuẩn huyết sau sinh và tử vong ở những phụ nữ sinh thường. Chỉ 1,6% phụ nữ trong nghiên cứu dùng azithromycin khi chuyển dạ bị nhiễm khuẩn huyết hoặc tử vong trong vòng 6 tuần sau khi sinh, so với 2,4% ở những người dùng giả dược. Tuy nhiên, Azithromycin không làm giảm nguy cơ thai lưu, nhiễm khuẩn sơ sinh hoặc tử vong sơ sinh.

Carbapenem là khuyến cáo đầu tay điều trị nhiễm trùng ngoài đường tiết niệu do Enterobacterales sinh ESBL (ESBL-E) gây ra (5). Ertapenem là Carbapenem nhóm 1 được chỉ định điều trị nhiễm trùng gram âm đa kháng (không bao gồm Pseudomonas và Acinetobacter).

Bệnh lý đái tháo đường làm gia tăng nguy cơ gặp kết cục bất lợi cho phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh. Việc kiểm soát tốt đường huyết trước và trong thời kỳ mang thai giúp làm giảm các nguy cơ gây hại cho người mẹ và cho bé. Theo tiêu chuẩn chăm sóc bệnh nhân đái tháo đường của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (American Diabetes Association – ADA) năm 2023, việc theo dõi glucose liên tục (Continuous Glucose Monitoring – CGM) có thể giúp đạt nồng độ HbA1c mục tiêu cho bệnh nhân đái tháo đường và phụ nữ đang mang thai cần sử dụng thêm thiết bị theo dõi glucose trước và sau bữa ăn. Gần đây, FDA đã phê duyệt việc sử dụng thiết bị theo dõi glucose liên tục G7 CGM cho phụ nữ mang thai mắc bệnh đái tháo đường tuýp 1, tuýp 2 hoặc đái tháo đường thai kỳ.

1234567
...

Kết nối với Bệnh viện Từ Dũ