Hóa trị là một trong những phương pháp điều trị ung thư hiệu quả hiện nay, với mục đích tiêu diệt hoặc làm chậm sự phát triển của các tế bào ung thư. Tuy nhiên, bên cạnh khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư, hóa trị cũng có thể gây tổn thương cho các tế bào khỏe mạnh, dẫn đến nhiều tác dụng phụ không mong muốn và ảnh hưởng tới sức khỏe cũng như chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Mỗi loại thuốc hóa trị có thể gây ra những tác dụng phụ khác nhau, và phản ứng của từng người bệnh đối với các loại thuốc này cũng có sự khác biệt. “Cẩm nang thông tin về tác dụng phụ có thể gặp của thuốc điều trị ung thư truyền tĩnh mạch” được xây dựng nhằm cung cấp thông tin chi tiết về các triệu chứng có thể xảy ra khi sử dụng từng loại thuốc cụ thể, giúp bạn hiểu rõ hơn về những tác dụng phụ có thể gặp phải và cách quản lý chúng hiệu quả.
Cập nhật Hướng dẫn năm 2024 của IDSA trong điều trị nhiễm khuẩn Gram âm kháng thuốc
Metronidazole, một loại kháng sinh thuộc nhóm nitroimidazole được sử dụng rộng rãi để điều trị nhiễm trùng kỵ khí, thường được dùng với chế độ liều 3 lần một ngày (TID). Tuy nhiên, thuốc có liên quan đến một số tác dụng phụ, chẳng hạn như khó chịu ở đường tiêu hóa và bệnh lý thần kinh ngoại biên, và có thể được giảm bằng cách dùng thuốc với tần suất ít hơn. Một cái nhìn sâu hơn về cơ sở dược động học và bằng chứng lâm sàng ủng hộ việc dùng liều hai lần mỗi ngày (BID) có thể mang lại chiến lược tối ưu nhất trong điều trị các bệnh nhiễm trùng khác nhau.
Trong 6 tháng đầu năm 2024, Bệnh viện Từ Dũ ghi nhận 160 báo cáo ADR, giảm 1,3 lần so với cùng kỳ năm 2023 (209 báo cáo).
Giảm tiểu cầu không rõ nguyên nhân là một vấn đề cần được quan tâm và lưu ý, nhất là ở những bệnh nhân đang nhập viện hoặc đang sử dụng các loại thuốc mới. Bài viết này nhằm thảo luận về việc giảm tiểu cầu miễn dịch do sự phá hủy tiểu cầu thông qua trung gian kháng thể do tiếp xúc với một loại thuốc dẫn đến giảm tiểu cầu đơn độc (những dòng tế bào khác bình thường).
Acid béo omega-3 hiện diện trong cá và hải sản giúp hỗ trợ phát triển chức năng và trí não cho trẻ. Những chất này rất cần thiết vì cơ thể không thể tự tạo ra được. Chế độ ăn thiếu hụt omega-3 cho trẻ em trở thành tiêu chuẩn tại Vương quốc Anh, bất chấp tầm quan trọng đặc biệt của những chất dinh dưỡng này đối với sức khoẻ tinh thần và thể chất. Có thể dự đoán được những hành vi, tâm trạng và khả năng học tập khác nhau giữa các trẻ liên quan đến sự thiếu hụt omega-3.
Kháng sinh β-lactam đường tĩnh mạch vẫn là nền tảng trong việc kiểm soát nhiễm khuẩn do có phổ kháng khuẩn rộng và khả năng dung nạp tốt. Kháng sinh β-lactam có hoạt tính diệt khuẩn phụ thuộc vào thời gian, trong đó việc giảm tải lượng vi khuẩn có liên quan trực tiếp đến thời gian mà nồng độ thuốc tự do duy trì trên nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của vi khuẩn trong khoảng đưa liều.
Việc nhai, bẻ, nghiền các loại thuốc viên đôi khi cần thiết trong một số trường hợp. Tuy nhiên, các thuốc có dạng bào chế đặc biệt nếu bị nhai, bẻ, nghiền có thể ảnh hưởng đến tác dụng điều trị và tính an toàn của thuốc. Chẳng hạn như nếu nghiền viên phóng thích chậm hoặc phóng thích kéo dài sẽ gây phóng thích một lượng lớn hoạt chất tại một thời điểm nhất định, gây quá liều thuốc và gây nguy hiểm cho người bệnh. Nghiền viên bao tan trong ruột có thể làm cho thuốc bị bất hoạt ở dạ dày hoặc gây kích ứng cho đường tiêu hóa. Nghiền viên bao phim gây phá vỡ lớp bảo vệ giúp che mùi vị khó chịu của thuốc, tránh ánh sáng hoặc tránh các tác dụng có hại tại chỗ của thuốc. Nghiền thuốc gây độc tế bào có thể gây hại cho người nghiền, người bẻ viên thuốc do tiếp xúc với thuốc.
Pseudomonas aeruginosa đa kháng thuốc (MDR-P. aeruginosa) được định nghĩa là không nhạy cảm với ít nhất một loại kháng sinh trong ít nhất ba nhóm kháng sinh mà P. aeruginosa thường nhạy cảm: penicillin, cephalosporin, fluoroquinolon, aminoglycosid và carbapenem. Trong hướng dẫn này, đề kháng “khó điều trị” (DTR) được định nghĩa là P. aeruginosa biểu hiện không nhạy cảm với tất cả các kháng sinh như là: piperacillin-tazobactam, ceftazidim, cefepim, aztreonam, meropenem, imipenem-cilastatin, ciprofloxacin và levofloxacin.