Thai nghén và nước ối

      TS. BS Huỳnh Thị Thu Thủy
    Phó Giám đốc - BV Từ Dũ
    Thai nhi 3 tháng tuổi.
    Ảnh chỉ mang tính chất minh họa.

    Thai nhi nằm trong tử cung của người mẹ và được bao bọc xung quanh bởi nước ối. Nước ối là một môi trường giàu  chất dinh dưỡng, có khả năng tái tạo và trao đổi, giữ một vai trò quan trọng đối với sự sống còn và phát triển của thai nhi nằm trong bụng mẹ. Nước ối xuất hiện từ ngày thứ 12 sau thụ thai. Nước ối được tạo thành từ ba nguồn gốc: thai  nhi, màng ối và máu mẹ. 

    1. Nguồn gốc từ thai nhi: Trong giai đoạn sớm thai kỳ, da thai nhi có liên quan đến sự tạo thành nước ối và khi chất gây xuất hiện từ tuần thứ 20-28 thai kỳ thì đường tạo ối này mới chấm dứt. Từ tuần thứ 20, nước ối có nguồn gốc từ khí-phế -quản, do huyết tương của thai nhi thẩm thấu qua niêm mạc hô hấp của bé. Nhưng nguồn gốc nước ối quan trọng nhất là do đường tiết niệu, bé bài tiết nước tiểu vào buồng ối từ tuần 16 thai kỳ.
    2.  
    3. Nguồn gốc từ màng ối: Màng ối bao phủ bánh nhau dây rốn, cũng tiết ra nước ối
    4.  
    5. Nguồn gốc từ máu mẹ: có sự trao đổi qua màng ối của các chất giữa máu mẹ và nước ối
    Sự tái hấp thu nước ối: Được thực hiện chủ yếu qua hệ tiêu hóa thai nhi. Từ tuần thứ 20 thai kỳ, thai nhi bắt đầu nuốt nước ối. Ngòai ra, nước ối còn được tái hấp thu qua da của thai nhi, dây rốn và màng ối.

    Như vậy, ngay từ đầu thai kỳ, nước ối đã có chức năng nuôi dưỡng phôi thai. Sau khi lá nhau được thành lập, nước ối giữ phần biến dưỡng nước và các chất khác bảo đảm cho sự sống còn và phát triển của thai. Thai từ 34 tuần trở lên hấp thu từ 300-500ml nước ối mỗi ngày. Lượng nước ối này vào ruột góp phần tạo phân su, vào máu góp phần cân bằng dịch trong cơ thể thai nhi và được lọc một phần tạo thành nước tiểu cho bé.

    Nước ối còn có chức năng bảo vệ, che chở cho thai tránh những va chạm, sang chấn, đặc biệt là bảo đảm môi trường vô trùng cho bé trong bọc ối.

    Về mặt cơ học, nưốc ối tạo môi trường cho thai phát triển hài hòa và bình chỉnh về ngôi thai trong ống sinh dục của mẹ trong những tháng cuối thai kỳ. Trong lúc chuyển dạ sanh, nước ối tiếp tục bảo vệ thai nhi khỏi những sang chấn của cơn co tử cung và nhiễm khuẩn. Nước ối giúp thành lập đầu ối nong cổ tử cung của mẹ giúp cho sự xóa mở cổ tử cung được thuận lợi hơn.

    Sau khi vỡ ối, tính nhờn của nước ối bôi trơn đường sinh dục của mẹ giúp thai nhi dễ được sinh ra hơn.

    Như vậy, nước ối là một dịch luân lưu, từ tam cá nguyệt thứ hai, nước ối có nguồn gốc phần lớn do thai nhi bài tiết từ đường tiết niệu và nước ối được hấp thu lại do thai nuốt vào hệ tiêu hóa. Thể tích nước ối thay đổi từ  50ml khi thai nhi được 4-8 tuần tuổi đến 1000ml khi thai được 38 tuần. Sau đó, thể tích nước ối có khuynh hướng giảm dần và còn khỏang 600-800ml vào tuần thứ  40 của thai kỳ hay lúc chuyển dạ sanh.

    Về màu sắc: lúc đầu thai kỳ nước ối có màu trắng trong. Thai nhi càng lớn dần thì màu sắc nuớc ối sẽ trắng đục dần do có chứa nhiều chất gây. Thai đủ trưởng thành (từ tuần lễ thứ 38), nước ối sẽ có màu trắng đục gần giống như nước vo gạo.

    Bệnh lý của nước ối:

    Qua khảo sát bệnh lý của nước ối, chúng ta có thể đánh giá được tình trạng sức khỏe và một số bệnh lý của thai nhi

    Nước ối có thể bất thường về thể tích và bất thường về màu sắc.


    Bất thường về thể tích

    Đa ối: Khi thể tích nước ối trên 2000ml: thường gặp trong đa thai và một số bất thường về hệ thần kinh trung ương của thai nhi như não úng thủy, thai vô sọ, thoát vị não màng não, cột sống chẻ đôi…. Đa ối cũng có thể do nguyên nhân bệnh lý của màng ối, của bánh nhau dây rốn, phù nhau thai, thai nhi to, do bệnh lý của mẹ như mẹ bị tiểu đường, .. hơặc vô căn

    Ảnh hưởng của đa ối lên sự phát triển và sức khỏe thai nhi: đa ối nếu do nguyên nhân dị tật hay dị dạng thì tiên lượng rất xấu. Đa ối sẽ làm cho bé khá di động trong tử cung nên dễ có dây rốn quấn cổ, ngôi bất thường. Đa ối làm bụng mẹ  căng to, mẹ khó thở, dễ cò cơn co tử cung và chuyển dạ sinh non làm tăng tỷ lệ tử vong chui sinh của bé. Khi chuyển dạ sanh, tình trạng đa ối dễ là nguyên nhân của chuyển dạ kéo dài làm bé dễ suy thai, mẹ bị đờ tử cung gây băng huyết sau sanh. Đồng thời, đa ối sẻ dễ bị vỡ ối đột ngột và tai biến của vỡ ối đột ngột là: nhau bong non, sa dây rốn, ngôi bất  thừờng và thuyên tắc ối. Những điều này làm đe dọa tín mạng của cả 2 mẹ con.

    Thiểu ối hay ít  ối, vô ối: Khi thể tích nước ối dưới 200ml: Thường gặp trong bất thường hệ tiết niệu và hệ tiêu hóa thai nhi như hẹp thực quản, không có dạ dày, van niệu đạo sau ở bé nam, bất sản thận…. Thiểu ối còn gặp trong tình trạng mẹ suy dinh dưỡng, thai suy dinh dưỡng, thai quá ngày sanh, vỡ ối non, vỡ ối sớm….

    Ảnh hưởng của thiểu ối lên sự phát triển của thai nhi: Thiểu ối nếu xuất hiện sớm vào tam cá nguyệt thứ 2 có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thai nhi. Nếu không phải do dị tật bẩm sinh thì bé cũng có những hậu quả lớn vì tình trạng thiểu ối kéo dài: trật khớp háng bẩm sinh, xơ cứng các khớp, tay chân khoèo do không cử động tốt được trong buồng tử  cung ít  nước ối, thiểu sản phổi gây suy hô hấp. Vào tam cá nguyệt thứ ba, nếu thiểu ối thường do bé suy dinh dưỡng và hậu quả cũng lớn: tay chân khoèo, xơ cứng khớp, thiểu sản phổi và điều quan trọng là chèn ép dây rốn, bé dễ bị suy thai và không bình chỉnh được ngôi thai có thể có những ngôi bất thường gây đẻ khó. Nếu vỡ ối gây thiểu ối khi chưa chuyển dạ hoặc khi mới bắt đầu đau bụng sanh sẽ làm nhiễm trùng ối, từ đó làm nhiễm trùng bào thai, nhiễm trùng tử cung… cả mẹ và  bé đều nguy hiểm, đều bị ảnh hưởng đến sức khỏe và tín mạng.
     
    Cách đánh giá thể tích nước ối:
       
    1. Dựa vào thăm khám lâm sàng: dựa vào sờ năn bụng, sờ năn phần thai cũng như thăm khám ngã âm đạo, người thầy thuốc lâm sàng có thể biết được có tình trạng nước ối nhiều hay ít, nhưng để ước đoán chính xác hơn về thể tích nước ối phải nhờ vào siêu âm đo các khoảng nước ối trong buồng ối
    2.  
    3. Dựa vào siêu âm bán định lượng để đo lượng nước ối: Có nhiều phương pháp bán định lượng để đánh giá thể tích nước ối qua siêu âm. Thông thường nhất là người ta đo chỉ số nước ối bằng cách cộng 4 khoang nước ối ở 4 góc của buồng ối.

    Chỉ số ối bình thường từ: 6-12cm:
    Bất  thường: Đa ối khi chỉ số ối: >= 20 cm
    Thiểu  ối : chỉ số ối : <= 5cm
    Vô ối: chỏ số ối:< 3cm

    Ngoài ra, người ta có thể dùng phương pháp tìm đo khoang ối lớn nhất trong buồng ối qua siêu âm để đánh giá thể tích nước ối: Nếu khoang ối lớn nhất <= 3cm có thể được xem là thiếu ối.

    Tuy nhiên, việc siêu âm để đo chỉ số nước ối phải được đánh giá ít nhất 2 lần liên tục  cách nhau từ 2-6 giờ để xác định  tình trạng thiểu ối hay thừa nước ối. Và thể tích nước ối có thể thay đổi rất nhanh sau 12 giờ cũng như màu sắc nước ối có thể thay đổi tích tắc trong vòng 30phút đến 2 giờ. 

    Bất thường về màu sắc: 

    1. Nước ối có màu vàng xanh: có thể có hiện tượng tán huyết thai nhi hoặc thai nhi chậm phát triển trong tử cung
    2.  
    3. Nước ối dơ hay có màu xanh rêu sệt hoặc lẫn phân xu của bé: Thai nhi bị suy yếu trầm trọng trong bụng mẹ, đe dọa tín mạng.
    4.  
    5. Nước ối xanh đục như lẫn mũ, mùi hôi: là tình trạng nhiễm trùng ối, bé có nguy cơ cao bị nhiễm trùng trong tử cung…
    6.  
    7. Nước ối có màu đỏ nâu: bé không còn sống trong bụng mẹ hay thai nhi đã bị chết lưu.
    Màu sắc nước ối được nhìn thấy qua soi ối với những trường hợp cổ tử cung mở lớn hơn 1cm hoặc chọc hút bước ối qua thành bụng. Khi bấm ối hoặc vỡ ối tự nhiên thì có thể nhìn màu sắc nước ối một cách chính xác và rõ ràng.

    Tóm lại: mặc dù là nước ối, nhưng đối với thai kỳ, nước ối đóng vai trò quan trọng ngang bằng với lá nhau, dây rốn, tử cung trong vai trò nuôi dưỡng và bảo vệ thai nhi. Dựa vào khảo sát thể tích, tỷ trọng và màu sắc nước ối người ta có thể dự báo cũng như tiên đoán  được sức khỏe và tình trạng phát triển của bé đang còn nằm trong bụng mẹ.

    Tài liệu tham khảo

    1. High risk pregnancies 20 Edition
      •  
    2. Obstetrics William 19 edition
      •  
    3. Ultrasound in obstetric and gynecology 18 edition
    TS. BS Huỳnh Thị Thu Thủy

    Kết nối với Bệnh viện Từ Dũ