Chủ tịch Tôn Đức Thắng

    CNHS. Trần Thị Bích Phượng

    K. Cấp Cứu Chống Độc -  Chi Đoàn Khối PK - BV Từ Dũ

     

    Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức Cách Mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ Cách Mạng, phục vụ nhân dân”

    Chắc ai trong chúng ta cũng đều biết đến bác Tôn Đức Thắng là bạn chiến đấu của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, là chủ tịch nước đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam, vị chủ tịch lâu năm nhất của mặt trận Tổ Quốc Việt Nam.

    Sống gần trọn 92 mùa xuân, Bác Tôn đã cống hiến 70 năm đời mình cho sự nghiệp Cách Mạng của Đảng, của dân tộc và công cuộc bảo vệ hòa bình trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “là 1 chiến sĩ Cách Mạng dân tộc và chiến sĩ Cách Mạng thế giới, Đồng chí Tôn Đức Thắng là một trong những người Việt Nam đầu tiên đã tham gia đấu tranh bảo vệ Cách Mạng Tháng Mười Nga  vĩ đại … Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức Cách Mạng: Suốt đời cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ Cách Mạng, phục vụ nhân dân.” Hôm nay, chúng ta hãy cùng ngược dòng thời gian đi vào quá khứ để nhớ về Bác .

    Bác Tôn Đức Thắng sinh ngày 20.08.1888, trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước, tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, hạt Long Xuyên (nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang). Bác còn có bí danh “ Thoại Sơn” và được người dân Việt Nam gọi với tên thân mật là Bác Tôn

    Năm 1906, sau khi tốt nghiệp sơ cấp tiểu học Đông Dương, Bác rời quê lên Sài Gòn học nghề thợ máy tại Trường Cơ khí Á Châu. Tốt nghiệp hạng ưu, Bác được nhận vào làm công nhân ở nhà máy Ba Son của Hải quân Pháp tại Sài Gòn.   

    Chính với hành trang yêu nước, thương nòi ấy, năm 1912, anh thanh niên Tôn Đức Thắng đã tham gia tổ chức cuộc bãi công của học sinh trường Bá Nghệ và công nhân Nhà máy sửa chữa tàu thủy Ba Son. Gần 10 năm sau, năm 1920, trở về Sài Gòn sau sự kiện kéo cờ trên Hắc Hải nổi tiếng, Bác cùng những người bạn thân thiết lập ra tổ chức đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam - Công hội bí mật tại Sài Gòn - Chợ Lớn, nhằm đấu tranh bênh vực quyền lợi của công nhân, đấu tranh chống đế quốc tư bản.

    Bước ngoặc trong cuộc đời hoạt động cách mạng của bác Tôn Đức Thắng mở ra vào một ngày cuối năm 1926, khi nhận được chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, bác Tôn Đức Thắng nhanh chóng tán thành gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tán thành con đường cứu nước giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ đây, trong con người Bác Tôn, yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với Tổ quốc, với dân tộc cũng đồng thời là trung thành với sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã nâng lòng yêu nước chân chính của bác Tôn Đức Thắng lên một tầm cao mới, thêm sức mạnh và hăng hái lao vào hoạt động cách mạng. Năm 1927, Kỳ bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kỳ thành lập. Bác được cử là một thành viên trong ban lãnh đạo Kỳ bộ và trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Trên cương vị này, Bác Tôn đã tích cực tuyên truyền giác ngộ và cùng các đồng chí của mình tham gia chuẩn bị cho sự ra đời của một đảng mác-xít chân chính ở Việt Nam.

    Cuối năm 1929, giữa lúc phong trào cách mạng đang phát triển mạnh mẽ thì Bác bị mật thám Pháp bắt, đưa về Khám lớn Sài Gòn và dùng mọi cực hình tàn bạo hòng khai thác những tin tức về cách mạng. Nhưng chúng đã thất bại trước khí phách kiên cường, bất khuất của người chiến sĩ cộng sản. Chúng kết án Bác 20 năm khổ sai và đày ra Côn Đảo. Ở nơi "địa ngục trần gian", Bác vẫn vững lòng tin vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam, cùng các đồng chí ở Banh 1 thành lập Chi bộ đặc biệt và trở thành một trong những người lãnh đạo của chi bộ cùng anh em trong tù tiếp tục đấu tranh.

    Cách mạng Tháng Tám thành công, vừa được đón về đất liền, người chiến sĩ cộng sản Tôn Đức Thắng đã hăng hái cùng quân dân miền nam chiến đấu chống thực dân Pháp; sau đó được điều ra bắc, lần lượt đảm nhiệm các trọng trách: Phó Hội trưởng Hội Liên Việt, Chủ tịch Mặt trận Liên Việt, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Dù ở cương vị nào, Chủ tịch Tôn Đức Thắng cũng luôn luôn nêu cao phẩm chất trung thành với Tổ quốc, với dân tộc, với Đảng, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.

    Có thể nói, khiêm tốn và giản dị, tình nghĩa và trong sáng là những đức tính của Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Chủ tịch Tôn Đức Thắng rất khiêm nhường. Một người dân thuộc địa tham gia cuộc binh biến ở Hắc Hải năm 1919 để bảo vệ nước Cộng hòa Xô-viết trẻ tuổi là một sự kiện được nhân dân Liên Xô cũng như nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ thế giới khâm phục, ngợi ca. Vậy nhưng khi hồi tưởng lại sự kiện này, Chủ tịch khiêm tốn viết: "Tôi tin rằng, bất kỳ người Việt Nam yêu nước nào, nhất là công nhân, được tham gia vào những giờ phút lịch sử đó tại Biển Đen, không thể hành động khác tôi. Bởi vì yêu Tổ quốc và căm thù đế quốc, cũng có nghĩa là yêu Cách mạng Tháng Mười và căm thù những kẻ chống lại Cách mạng Tháng Mười".

    Là người đầu tiên được nhận huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta - Huân chương Sao Vàng, trong lời phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch xúc động nói: "Trong buổi lễ vinh quang này, tôi nghĩ đến thời kỳ tôi còn ấu trĩ, nghĩ đến những lúc khó khăn hiểm nghèo, Đảng đã dìu dắt, giáo dục tôi, nhân dân đã rèn luyện và giúp đỡ tôi để có được ngày hôm nay".

    Tháng 10-1975, về thăm quê ở Cù lao Ông Hổ,  Chủ tịch Tôn Đức Thắng chỉ nhận mình là một người được Đảng và Nhà nước cho phép về thăm quê nhà, gặp lại anh em họ Mạc, thăm hỏi bà con xóm ấp. Đến cây xoài trước cổng nhà, cây cầu gỗ thuở nhỏ đi học qua, Chủ tịch vẫn nhớ mãi trong ký ức. Khi đã trở thành một vị nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch vẫn giữ nếp sống khiêm tốn, giản dị của người lao động, thích đi bộ, thích lao động chân tay và tự mình làm mọi việc cho bản thân mà không muốn phiền ai giúp đỡ. Chủ tịch ăn mặc rất giản dị. Có lần, các đồng chí miền nam đến thăm thấy Chủ tịch mặc chiếc áo ấm cũ có nối thêm một đoạn cho khỏi ngắn, đã cảm động hỏi: Bác ơi, làm Chủ tịch nước sao Bác mặc áo nối thế này? Chủ tịch vui vẻ trả lời: Chủ tịch nước mặc áo nối thì dân mới có đủ cơm ăn. Thật hồn hậu, giản dị biết bao!

    Chủ tịch Tôn Đức Thắng thường xuyên dành tình cảm ân cần chăm lo cho đồng chí, đồng bào, đặc biệt là với các cháu thanh niên, thiếu niên, nhi đồng. Được tặng Giải thưởng Lê-nin "Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc" và kèm theo mười vạn rúp, Chủ tịch đã ủng hộ số tiền này cho Phong trào bảo vệ thiếu nhi thủ đô. Số tiền một vạn rúp các bạn Liên Xô đưa để mua quà tặng, Chủ tịch cũng chỉ dùng một phần nhỏ để mua một chiếc cối xay hạt tiêu tặng người vợ thân yêu, còn lại đem gửi trả bạn.

    Là một người yêu nước chân chính, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đồng thời là một chiến sĩ tiêu biểu cho tinh thần quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua hành động cách mạng quả cảm của Tôn Đức Thắng khi tham gia cuộc binh biến Hắc Hải vào tháng 4-1919, để bảo vệ Cách mạng Tháng Mười Nga và lãnh đạo cuộc bãi công và lãn công của công nhân xưởng Ba Son từ tháng 8 đến tháng 11-1925, giam chân chiến hạm Juyn Mi-sơ-lê ba tháng, để ủng hộ phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc.

    Ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã giúp người công nhân yêu nước Tôn Đức Thắng thấm nhuần sâu sắc tinh thần quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân và ý nghĩa của chính những hành động cách mạng ủng hộ cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc mà bản thân đã tham gia. Từ đó, ở bác Tôn Đức Thắng, lòng yêu nước chân chính đã thật sự gắn chặt với tinh thần quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân.

    Là người cống hiến không mệt mỏi cho sự nghiệp xây dựng, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đồng thời là người góp phần tích cực vào việc thực hiện tình đoàn kết gắn bó giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước. Do những cống hiến đối với phong trào cách mạng thế giới, Chủ tịch Tôn Đức Thắng đã được bầu là Chủ tịch Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam, Ủy viên Hội đồng hòa bình thế giới và được trao tặng Giải thưởng Lê-nin "Vì hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc", cùng nhiều  huân chương cao quý nhất của các nước anh em.

    Trọn đời ,chủ tịch Tôn Đức Thắng nêu một tấm gương ngời sáng về phẩm chất cao đẹp của người Cộng sản. Mỗi chúng ta hãy học tập đạo đức Cách Mạng, lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của Bác. Noi gương Bác  hãy tận tụy với công việc của Đảng và nhân dân giao phó , đóng góp hết mình cho công cuộc đổi mới, làm cho rừng cây đoàn kết mà Bác đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời vun đắp không ngừng nở hoa, kết trái, để hoài bão “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của Bác Hồ, Bác Tôn, của Đảng và của mỗi chúng ta sớm thành hiện thực trên Tổ Quốc thân yêu.   

    CNHS. Trần Thị Bích Phượng

    Kết nối với Bệnh viện Từ Dũ