Bs Đỗ Minh Hoàng Trọng Khoa Giải Phẫu Bệnh – BV Từ Dũ
I. CHUẨN BỊ 1. Bệnh nhân: - Lấy mẫu ở nửa chu kỳ sau của kinh nguyệt để tránh mẫu không bị lẫn nhiều máu. Không lấy mẫu phết cổ tử cung khi đang có kinh.
- Hướng dẫn bệnh nhân không thụt rửa âm đạo, không đặt bất kỳ thuốc nào vào âm đạo, không giao hợp trong vòng 48 giờ trước khi lấy mẫu.
- Hướng dẫn bệnh nhân nằm tư thế sản khoa. Dùng mỏ vịt không bôi chất làm trơn (có thể dùng nước muối sinh lý hoặc nước ấm để làm trơn mỏ vịt), bộc lộ cổ tử cung hoàn toàn, sao cho có thể thấy cổ tử cung rõ ràng nhất.
2. Phiếu xét nghiệm: bắt buộc phải có những thông tin tối thiểu sau:
- Họ và tên - Năm sinh (hoặc Tuổi) - PARA - Ngày lấy mẫu - Vị trí lấy mẫu: cổ trong cổ tử cung, cổ ngoài cổ tử cung, mỏm cắt âm đạo, âm đạo - Họ và tên người lấy mẫu
Thông tin lâm sàng: ngày kinh chót, chẩn đoán, điều trị trước đó.
3. Lam và lọ đựng bệnh phẩm:
- Dùng viết chì viết lên phần kính mờ của lam họ và tên bệnh nhân, mã số bệnh nhân. Nếu dùng 2 lam cho phết cổ tử cung, cần có ký hiệu rõ lam cho cổ ngoài cổ tử cung (C: ectocervix) và lam cho cổ trong cổ tử cung (E: endocervix). Cần lưu ý rằng phòng Tế bào sẽ không nhận mẫu nếu lam không có tên bệnh nhân.
- Lọ đựng lam cũng phải được ghi họ tên bệnh nhân rõ ràng.
4. Các dụng cụ cần thiết:
- Mỏ vịt âm đạo
- Spatula bằng nhựa hoặc gỗ
- Bàn chải tế bào (Cytobrush®)
- Dung dịch cố định (bình xịt dung dịch cố định hoặc lọ đựng dung dịch ethyl alcohol 95%). Cần lưu ý rằng các loại bình xịt tóc đều không có đủ lượng alcohol cần thiết để cố định tốt tế bào. Thành phần trong bình xịt là polyethylene glycol hòa tan trong alcohol. Khi xịt, 1 lớp bao film sẽ bao quanh tế bào, giúp bảo vệ tế bào, không làm tế bào bị khô. Lớp bao film này có nguồn gốc từ resin, giúp bảo quản được nhân tế bào. Lớp bao film này hòa tan trong nước và sẽ được tẩy sạch bằng alcohol 95% trước khi bắt đầu chu trình nhuộm. Alcohol trong bình xịt cũng được điều chế để làm cho chất nhiễm sắc không kết hợp với nước, giúp cho thấy rõ màng nhân.
- Lam sạch (có phần kính mờ ở một đầu lam)
- Viết chì đen (loại dành cho phòng xét nghiệm)
- Phiếu xét nghiệm tế bào
II. CÁC BƯỚC LẤY MẪU
Trước khi lấy mẫu, viết lên lam họ và tên bệnh nhân và vị trí lấy bệnh phẩm. Dùng mỏ vịt không bôi trơn (có thể dùng nước muối sinh lý hoặc nước ấm để làm trơn mỏ vịt). Quan sát cổ tử cung, chú ý vùng chuyển tiếp (transformation zone) và các vùng bất thường ở cổ tử cung. Khi lấy mẫu, phải lấy được mẫu ở vùng chuyển tiếp và các vùng bất thường (nếu thấy được). Vùng chuyển tiếp là vùng nằm giữa 2 giới hạn (squamocolumnar junction): giới hạn ngoài (original squamocolumnar junction) là ở cổ ngoài cổ tử cung, nơi có các cửa tuyến (gland openings) và nang Naboth, giới hạn trong (active squamocolumnar junction) là nơi biểu mô trụ gặp biểu mô lát.
1. Bước 1:Chùi sạch cổ tử cung (chỉ thực hiện khi có quá nhiều dịch tiết ở cổ tử cung): Dùng 1 que quấn gòn chùi nhẹ nhàng cổ tử cung, chùi bớt chất nhầy ở lỗ cổ tử cung. Lưu ý không được rửa cổ tử cung bằng nước muối sinh lý.
2. Bước 2: Lấy mẫu
*Nếu cần xét nghiệm Chlamydia, thì lấy mẫu xét nghiệm Chlamydia trước khi làm phết cổ tử cung. a. Phết cổ tử cung thường quy: Kỹ thuật lấy mẫu 1 lam (dùng 1 spatula và 1 bàn chải tế bào (Cytobrush®)):
- Sau khi quan sát cổ tử cung rõ ràng, dùng spatula đầu to, cào toàn bộ chu vi cổ ngoài cổ tử cung (xoay spatula 3600). Bắt đầu cào ở vị trí 9g, xoay 1 vòng theo chiều kim đồng hồ, kết thúc ở vị trí 9g (có thể xoay vòng ngược chiều kim đồng hồ, từ vị trí 3g đến 3g). Bằng cách này, tế bào sẽ nằm phía trên mặt phẳng ngang khi rút spatula ra. Rút spatula ra. Đừng phết tế bào lên lam. Giữ spatula trong1 tay, tay kia tiếp tục lấy mẫu cổ trong cổ tử cung. Hoặc có thể để spatula lên lam, đưa phần có bệnh phẩm hướng lên trên, rồi tiếp tục lấy mẫu cổ trong cổ tử cung.
- Đưa bàn chải tế bào vào trong cổ trong cổ tử cung cho đến khi tất cả các lông bàn chải tiếp xúc hoàn toàn với cổ tử cung. Không đưa bàn chải vào quá sâu, chỉ đưa vào bằng chiều dài bàn chải (1.5 – 2 cm) Xoay bàn chải ¼ - ½ vòng, theo 1 chiều. Lưu ý không xoay > ½ vòng. Không nên xoay nhiều vòng vì có thể làm cổ tử cung chảy máu. Rút bàn chải tế bào ra.
- Nhanh chóng phết tế bào trên spatula lên một nửa lam ở kế bên phần kính mờ. Phết theo 1 chiều duy nhất. Phết mỏng đều, sao cho chỉ có 1 lớp tế bào. Dàn mỏng những vùng tế bào bị dồn cục. Tránh thao tác quá mạnh tay làm hủy hoại tế bào.
- Nhanh chóng phết tế bào trên bàn chải lên một nửa lam, phía đối diện với phần kính mờ. Phết tế bào bằng cách xoay vòng bàn chải theo chiều dài của lam, vừa xoay vừa đè nhẹ bàn chải. Sau đó phết lớp thứ hai chồng lên phết thứ nhất.
Theo Globocan năm 2012, ung thư CTC là ung thư phổ biến đứng hàng thứ ba ở phụ nữ toàn thế giới. Tỉ lệ tử vong đứng hàng thứ tư trong số ung thư ở nữ giới. Ước tính khoảng 500.000 ca mới mỗi năm và khoảng 75% xảy ra ở các nước đang phát triển. Cũng theo Globocan, tại Việt Nam số ca mắc mới là 5,146 ca.
Âm đạo là bộ phận nhạy cảm, rất dễ bị viêm. Viêm âm đạo (Vaginitis) là một loại bệnh phụ khoa khá phổ biến ở chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, có thể xảy ra ngay cả với các bạn gái ở tuổi dậy thì.
Tiểu không kiểm soát khi gắng sức (SUI) là vấn đề sức khỏe gây ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý và chất lượng cuộc sống của phụ nữ, đặc biệt ở phụ nữ tuổi trung niên và tuổi già.
Nhau cài răng lược (NCRL) là một biến chứng hiếm gặp của thai kỳ có khả năng đe dọa tính mạng mẹ và thai nhi. Nghiên cứu “Kết cục thai kỳ NCRL tại BV Từ Dũ” của TS.BS Lê Thị Thu Hà và cộng sự cho thấy, tần suất NCRL tăng 7 lần trong 34 năm qua. NCRL chiếm khoảng 1/7000 trường hợp sinh (1977) và đến năm 2011 là 1/1100 trường hợp.
Chứng co thắt âm đạo, là tình trạng về thể chất hoặc tâm lý có ảnh hưởng đến khả năng của một người phụ nữ khi có bất kỳ hình thức xâm nhập âm đạo nào, bao gồm cả quan hệ tình dục, chèn tampons trong khi hành kinh, và ngay cả việc thăm khám phụ khoa. Điều này được cho là kết quả của một sự co thắt cơ âm đạo không tự ý, làm cho người phụ nữ cảm thấy đau đớn và không thể chịu đựng được bất kỳ loại xâm nhập âm đạo nào, bao gồm cả giao hợp. Trong khi thiếu chứng cứ để xác định rõ ràng cơ nào chịu trách nhiệm cho sự co thắt, các cơ mu-cụt, thường được gợi ý. Những cơ khác như cơ nâng hậu môn, cơ hành hang, cơ vòng âm đạo, cơ cạnh âm đạo, cũng đã được đề nghị.