27/10/2020
Ngộ độc thuốc gây tê (local anesthetic systemic toxicity - LAST) là phản ứng có hại nghiêm trọng, có thể gây tử vong cho bệnh nhân. Phản ứng này đã được ghi nhận nhiều trong y văn và trong cơ sở dữ liệu về báo cáo phản ứng có hại của thuốc tại Việt Nam và trên thế giới. Tại Việt Nam, Cơ sở dữ liệu Quốc gia về ADR năm 2018 cũng đã ghi nhận 123 báo cáo liên quan đến các thuốc gây tê, trong đó nhiều bệnh nhân có biểu hiện phản ứng trên thần kinh (chóng mặt, choáng váng, đau đầu, kích động, lơ mơ, nói nhảm, tay chân quờ quạng) và tim mạch (mạch nhanh, tụt huyết áp, trụy tim mạch). Gần đây nhất vào cuối năm 2019 có 03 trường hợp xảy ra tai biến có liên quan đến ngộ độc thuốc gây tê sau khi tiêm bupivacain vào tủy sống, trong đó có 02 trường hợp đã tử vong.
Tất cả các thuốc gây tê đều có vòng thơm kỵ nước và nhóm amin thân nước. Chuỗi trung gian có thể chứa liên kết ester hoặc amid. Các đặc tính hóa lý của thuốc gây tê giải thích cho sự khác biệt về dược động học giữa các thuốc này khi sử dụng trên lâm sàng[1].
Thời gian tác dụng của các thuốc gây tê rất khác nhau, liên quan đến mức độ hòa tan trong lipid và cấu trúc hóa học của thuốc. Chloroprocain và procain là các thuốc gây tê có tác dụng ngắn; lidocain có tác dụng trung bình; bupivacain, ropivacain, levobupivacain thường có tác dụng dài hơn.
Thuốc gây tê |
Thời gian khởi phát tác dụng |
Thời gian gây tê |
Thời gian giảm đau |
Liều tối đa * |
2% lidocain |
10 – 20 |
2 – 5 |
3 – 8 |
4,5/7 |
0,2% ropivacain |
15 – 30 |
N/A |
5 – 16 |
3/3,5 |
0,5% ropivacain |
15 – 30 |
4 – 12 |
5 – 24 |
3/3,5 |
0,25% bupivacain |
15 – 30 |
N/A |
5 – 26 |
2,5/3 |
0,5% bupivacain (+epi) |
15 – 30 |
5 – 15 |
6 – 30 |
2,5/3 |
Nguồn: Gadsen J. Local Anesthetics: Clinical Pharmacology and Rational Selection. The New York School of Regional Anesthesia website, October 2013.
* Liều tối đa lấy từ các hướng dẫn chung về xâm nhập mô, phong bế thần kinh hoặc tiêm ngoài màng cứng. Độc tính toàn thân có thể xảy ra với liều thấp hơn mức khuyến cáo, đặc biệt khi tiêm vào lòng mạch. Liều vượt quá mức tối đa khuyến cáo đã được sử dụng mà không có độc tính. Các khuyến cáo này không tính đến vị trí tiêm, tỷ lệ dùng thuốc hoặc sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ gây độc toàn thân (rối loạn chức năng thận hoặc gan, suy tim, mang thai hoặc tuổi cao).
Trong cơ thể, thời gian tác dụng của một thuốc gây tê rất khác nhau và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bao gồm: nồng độ thuốc, liên kết protein, chuyển hóa của thuốc, tình trạng mô cục bộ và vị trí tiêm. Ví dụ, thời gian gây tê tủy sống bằng bupivacain khoảng 2,5 giờ, trong khi tiêm một lần vào đám rối thần kinh cánh tay có thể gây tê từ 5 – 15 giờ và giảm đau lên đến 30 giờ.
Tất cả các loại thuốc gây tê đều có khả năng gây LAST. Độc tính trên tim và mối quan hệ giữa độc tính trên tim mạch và độc tính trên hệ thần kinh trung ương khác nhau giữa các thuốc gây tê. Bupivacain là chất gây độc tính trên tim nhiều nhất, tiếp theo là levobupivacain, ropivacain và lidocain.
Bupivacain có tác dụng kéo dài nên thường được sử dụng trong gây tê tủy sống. Tuy nhiên, bupivacain có ái lực với kênh Na hơn lidocain nên phân giải chậm hơn. Ngoài ra, bupivacain còn liên kết mạnh với protein huyết tương nên việc hồi sức tim khó và kéo dài hơn[11]. Việc sử dụng ropivacain và levobupivacain có thể giúp giảm độc tính trên tim, nhưng không loại trừ được khả năng gây LAST, đặc biệt khi dùng ở liều cao.
Các thuốc gây tê có thể có tác dụng cụ thể trên tim như lidocain và mepivacain chủ yếu ảnh hưởng đến sự co bóp, trong khi bupivacain và ropivacain có xu hướng gây loạn nhịp tim nhiều hơn[6].
Biểu hiện lâm sàng của LAST rất khác nhau, thường bao gồm các dấu hiệu và triệu chứng ban đầu của kích thích thần kinh trung ương (tê quanh miệng, vị giác kim loại, thay đổi trạng thái tâm thần hoặc lo lắng, thay đổi thị giác, chứng giật cơ và cuối cùng là co giật), tiếp theo là ức chế thần kinh trung ương (buồn ngủ, hôn mê và suy hô hấp). Các dấu hiệu và triệu chứng trên tim mạch có thể xảy ra cùng hoặc sau các triệu chứng trên thần kinh trung ương, tuy nhiên cũng có thể xảy ra đơn lẻ; bao gồm tăng huyết áp hoặc hạ huyết áp, nhịp tim nhanh hoặc nhịp tim chậm, sau đó là loạn nhịp thất và/hoặc vô tâm thu. Các tác động trên tim mạch của các thuốc gây tê rất phức tạp và chưa được hiểu hoàn toàn[12].
Phụ nữ mang thai đặc biệt là mang thai đủ tháng có thể tăng nguy cơ bị ngộ độc thuốc tê vì một số lý do:
Nguy cơ bị ngộ độc thuốc tê cao hơn ở phụ nữ mang thai vì vậy cần giảm liều thuốc khi sử dụng trên đối tượng bệnh nhân này. Liều tối đa của thuốc gây tê nên dựa trên khối lượng cơ (LBW) hơn là trọng lượng cơ thể thực tế (TBW)[12].
Ngộ độc thuốc gây tê là phản ứng có hại nghiêm trọng và có thể gây tử vong cho bệnh nhân. Tuy nhiên, phản ứng này chưa được các nhân viên y tế chú ý đúng mức. Các biện pháp phòng ngừa có thể làm giảm nguy cơ ngộ độc thuốc gây tê bao gồm dùng thuốc gây tê ở liều thấp nhất có hiệu quả, sử dụng liều test nội mạch và dùng liều nhỏ tăng dần trong khoảng liều điều trị[11].
Tài liệu tham khảo
https://www.uptodate.com/contents/local-anesthetic-systemic-toxicity
TỔ TRƯỞNG HỘI ĐỒNG THUỐC VÀ ĐIỀU TRỊ
ĐƠN VỊ THÔNG TIN THUỐC
BS.CKII. Trần Ngọc Hải TS.BS. Lê Quang Thanh
Các bài viết khác