Misoprostol, một chất tương tự prostaglandin E1, kích thích co bóp tử cung và chín muồi cổ tử cung. Một số thử nghiệm ngẫu nhiên và tổng quan hệ thống đã đánh giá việc sử dụng Misoprostol trong lĩnh vực sản phụ khoa. Misoprostol không tốn kém, ổn định ở nhiệt độ phòng và có mặt ở hơn 80 quốc gia nên đặc biệt hữu ích trong những nơi nguồn lực hạn chế. WHO thừa nhận vai trò quan trọng của Misoprostol trong sức khỏe sinh sản và được tổng hợp trên các khuyến cáo cho việc sử dụng Misoprostol trong 4 hướng dẫn sức khỏe sinh sản tập trung vào khởi phát chuyển dạ, phòng và điều trị băng huyết sau sinh (BHSS), sẩy thai tự nhiên và phá thai.
Tiểu không tự chủ (TKTC) là một triệu chứng phổ biến, ảnh hưởng đến phụ nữ ở mọi lứa tuổi với nhiều loại và mức độ khác nhau. Hiếm khi đe dọa tính mạng nhưng tiểu không tự chủ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tâm lý và hoạt động xã hội của bệnh nhân. Sự hỗ trợ của gia đình, người thân cũng như sự chăm sóc y tế có vai trò đáng kể trong việc điều trị.
Hầu hết các thai phụ sẽ trải nghiệm một mức độ buồn nôn hoặc nôn khi mang thai.
Can thiệp bằng chế độ ăn uống và lối sống, cùng với điều trị thuốc thích hợp, có thể giúp thai phụ tiếp tục cuộc sống hàng ngày của họ và tối thiểu việc gián đoạn công việc.
Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc (Trung tâm DI & ADR Quốc gia) đã nhận được nhiều báo cáo xảy ra theo chuỗi. Trong đó, các phản ứng có hại (ADR) xuất hiện trong một thời gian ngắn tại một cơ sở khám, chữa bệnh với thuốc nghi ngờ nằm trong cùng lô thuốc của một nhà sản xuất:
Một nghiên cứu công bố ngày 24/3/2014 đăng trên tạp chí Pediatrics, việc sử dụng ceftriaxon điều trị các bệnh nhiễm trùng ở trẻ nhỏ có thể gây ra suy thận cấp (suy thận cấp có liên quan tới ceftriaxon - PARF).
Metronidazole là một dẫn xuất 5-nitroimidazole có tác dụng mạnh chống lại vi khuẩn kỵ khí và động vật nguyên sinh. Thuốc này được sử dụng trong điều trị các bệnh nhiễm trùng đơn bào nhạy cảm như nhiễm trùng do amip Entamoeba histolytica, nhiễm trùng đơn bào gây ra bởi nhiễm Balantidium coli, nhiễm Blastocystis hominis, nhiễm Trichomonas.
Áp xe phần phụ (AXPP) là khối viêm nhiễm tại ống dẫn trứng, buồng trứng, một số trường hợp có cả cơ quan lân cận trong vùng chậu như ruột và bàng quang. AXPP thường gặp ở phụ nữ độ tuổi sinh sản. Dữ liệu từ năm 1960, tỉ lệ tử vong do vỡ AXPP khoảng 1,7 tới 3,7%. Tỉ lệ tử vong gần như bằng không nếu như khối áp xe chưa vỡ.
Năm 1983, nhà sản xuất đã tự rút khỏi thị trường Hoa Kỳ thuốc phối hợp Bendectin (Merrell Dow), gồm 10 mg doxylamine succinate và 10 mg pyridoxine hydrochloride mỗi viên. 30 năm tiếp theo, không có thuốc nào được Cơ quan Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt để điều trị buồn nôn và nôn trong thai kỳ.
Cơ quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) khuyến cáo chống lại việc sử dụng thuốc tiêm Magne sulfat hơn 5-7 ngày để ngăn chặn sinh non ở thai phụ. Trên cơ sở này, mức độ an toàn của Magne sulfat đối với phụ nữ mang thai thay đổi từ mức phân loại A thành mức phân loại D, và thông tin ghi trên nhãn đã được thay đổi, bao gồm các thông tin cảnh báo mới này.
Hầu hết phụ nữ sẽ có một lần viêm nhiễm âm đạo trong đời. Ba bệnh phổ biến liên quan đến dịch tiết âm đạo là nhiễm khuẩn âm đạo (gây ra bởi sự phát triển quá mức của các vi khuẩn kỵ khí bao gồm Prevotella sp., Mobiluncus sp., G. vaginalis, Ureaplasma, Mycoplasma…), viêm âm đạo do trichomonas (do T. vaginalis) và viêm âm đạo do nấm (thường do Candida albicans). Chỉ khai thác tiền sử không đủ để chẩn đoán chính xác viêm âm đạo và có thể dẫn đến việc sử dụng thuốc không phù hợp. Do đó, cần phải có tiền sử bệnh, các đánh giá, xét nghiệm để xác định đúng nguyên nhân. Những thông tin về hành vi tình dục, giới tính của bạn tình, chu kỳ kinh nguyệt, vệ sinh âm đạo (như thụt rửa) và các thuốc đang dùng cũng nên được lưu ý