Nguyên tắc sử dụng kháng sinh hợp lý - an toàn

    Pgs. Ts. Mai Phương Mai
    ĐH Y Dược

    Trên phạm vi toàn cầu, bệnh nhiễm khuẩn là căn nguyên hàng đầu gây tử vong và từ khi phát hiện kháng sinh đầu tiên, trên 100 tác nhân đã được đưa vào sử dụng trị liệu. Tuy nhiên, các tác nhân này chỉ đại diện cho khoảng 10 loại kháng sinh chính và là các biến đổi về cấu trúc hóa học của các kháng sinh đã có từ trước  nên chúng dễ bị đề kháng chéo.

    Tình hình đề kháng kháng sinh đã được báo động trên khắp thế giới; đề kháng kháng sinh xảy ra rất thường ở bệnh viện, và cũng có ở cộng đồng. Theo một điều tra, có từ 20-50% kháng sinh sử dụng ở người không chắc chắn có hiệu quả điều trị và tất nhiên, việc sử dụng không hiệu quả còn có thể kèm theo các tác dụng không mong muốn của kháng sinh. Ở Việt Nam, thị trường thuốc rất phong phú nhưng chưa được quản lý chặt chẽ, tình trạng đề kháng kháng sinh gia tăng còn do việc dùng kháng sinh không qua kê đơn và không đúng cách. Vì vậy, song song với việc cải thiện hệ thống quản lý phân phối kháng sinh, kiểm soát và hạn chế sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi thú y, việc phòng chống nhiễm trùng,vệ sinh cơ sở điều trị thì sự hiểu biết, nắm vững các nguyên tắc sử dụng kháng sinh an toàn, hợp lý là vấn đề vô cùng thiết thực đối với đội ngũ điều trị, trong đó có vai trò rất  quan trọng của người dược sĩ. Các kiến thức này sẽ giúp người Dược sĩ hoạt động ngoài cộng đồng cũng như ở bệnh viện góp phần vào việc nâng cao hiệu quả điều trị, tính an toàn và tiết kiệm trong sử dụng kháng sinh.

     
      1. Nguyên tắc  sử dụng kháng sinh  hợp lý - an toàn
      Các nguyên tắc chính nhằm sử dụng hợp lý - an toàn kháng sinh là :
      + Chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm trùng.
      + Phải chọn đúng kháng sinh và đường cho thuốc thích hợp .
      + Phải sử dụng kháng sinh đúng liều lượng và đúng thời gian qui định .
      + Phải biết các nguyên tắc chủ yếu về phối hợp kháng sinh .
     
      1.1. Chỉ sử dụng kháng sinh khi  có nhiễm khuẩn :

    Mỗi nhóm kháng sinh chỉ có tác dụng trên một số loại vi khuẩn nhất định và hầu hết không có hiệu quả đối với các tác nhân gây bệnh khác như : virus, ký sinh  trùng, nấm,….Do đó, chỉ nên chỉ định sử dụng kháng sinh trong trường hợp có nhiễm khuẩn .

    Việc sử dụng kháng sinh khi không có nhiễm trùng vừa dẫn đến thất bại trong trị liệu, gây tốn kém, vừa có thể mang lại các tác dụng có hại cho người bệnh. Về mặt vi sinh học việc dùng bừa bãi kháng sinh còn có thể góp phần làm tăng các chủng đề kháng thuốc. Để quyết định việc sử dụng kháng sinh cần tiến hành :

    a/ Thăm khám lâm sàng: là bước quan trọng nhất và cần thực hiện trong mọi trường hợp, bao gồm việc lấy thân nhiệt, thăm khám và phỏng vấn bệnh nhân.

    Sốt là dấu hiệu điển hình khi có nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, nhiễm virus cũng gây sốt và sốt còn là triệu chứng do phản ứng thuốc, do bệnh lupus ban đỏ cấp tính, bệnh bạch cầu …..Do đó, việc thăm khám, phỏng vấn bệnh nhân và kinh nghiệm của người thầy thuốc là những yếu tố giúp ích rất  nhiều cho việc chẩn đoán tác nhân gây bệnh dựa vào các dấu hiệu đặc trưng của  bệnh .

    b/ Các xét nghiệm lâm sàng: bao gồm xét nghiệm công thức máu, X-quang và đo các chỉ số sinh hóa, sẽ góp phần khẳng định sự chẩn đoán của người thầy thuốc.

    c/ Tìm vi khuẩn gây bệnh : là phương pháp chính xác nhất để xác định nguyên nhân gây bệnh .Tuy nhiên, việc phân lập vi khuẩn gây bệnh đòi hỏi thời gian và phương tiện tốn kém nên không nhất thiết phải thực hiện ngay từ đầu. Việc xác định vi khuẩn gây bệnh đặc biệt cần thiết trong các trường hợp nhiễm trùng nặng như: nhiễm trùng máu, viêm màng não, nhiễm trùng mắc phải ở bệnh viện, nhiễm trùng ở người bị suy giảm miễn dịch hoặc khi mà việc thăm khám lâm sàng không tìm thấy các dấu hiệu đặc trưng của  bệnh .

    1.2. Phải chọn đúng kháng sinh và  đường cho thuốc thích hợp :

    A. CHỌN LỰA KHÁNG SINH

    Việc chọn lựa kháng sinh trong điều trị dựa trên 3 yếu tố chính: là vị trí nhiễm  trùng, phổ tác dụng của kháng sinh và cơ địa bệnh nhân.

    a/  Chọn lựa kháng sinh dựa vào vị trí nhiễm trùng :
    Trong  thực tế lâm sàng, rất nhiều trường hợp phải bắt đầu ngay kháng sinh trị liệu do mức độ nhiễm trùng nặng khômg thể chờ đợi kết quả xét nghiệm vi trùng học. Khi  đó, dựa vào vị trí ổ nhiễm trùng, có thể suy đoán ra loại vi khuẩn gây bệnh và  từ đó chọn kháng sinh thích hợp.

    Khi lựa chọn kháng sinh theo vị trí nhiễm trùng cần lưu ý đến khả năng xâm nhập của  kháng sinh vào ổ nhiễm trùng .

    Thí dụ :
      - Muốn điều trị viêm xương-khớp, cần chọn kháng sinh có khả năng xâm nhập tốt vào mô xương như : Quinolon II, rifampicin,  Lincosamid, ac.fusidic, fosfomycin .

    - Điều trị viêm màng não: chọn kháng sinh có khả năng thấm tốt vào dịnh não tủy như : Quinolon II, Cephalosporin III, fosfomycin  .

    - Nhiễm trùng do vi khuẩn nội bào: Quinolon II,  Macrolid, Cyclin, Lincosamid, Phenicol .

    - Nhiễm trùng tuyến tiền liệt: Quinolon II,  Macrolid, Cotrimoxazol, Phenicol,…

    b/ Chọn lựa kháng sinh dựa trên phổ tác dụng :

    Khi đã dự đoán hay biết được loại vi khuẩn gây bệnh nhưng chưa hay không thực hiện được kháng sinh đồ thì việc chọn kháng sinh sử dụng có thể dựa trên phổ tác dụng lý thuyết của kháng sinh. Khi lựa chọn, cần lưu ý đến mức độ nhạy cảm của vi khuẩn  gây bệnh đối với kháng sinh ở địa phương, cơ sở trị liệu để phòng ngừa khả năng  đề kháng thuốc, nghĩa là phải kết hợp khả năng tác động trên lý thuyết với hiệu  lực trong thực tế của kháng sinh đối với vi khuẩn gây bệnh.

    Đối với một loại kháng sinh, có thể phân loại vi khuẩn theo mức độ nhạy cảm đối với kháng sinh này :
      - Loại vi khuẩn thông thường nhạy cảm ->Ký hiệu  S .
      - Loại vi khuẩn đề kháng -> Ký hiệu R.
      - Loại vi khuẩn tương đối còn nhạy cảm -> Ký  hiệu MS.
      - Loại vi khuẩn có mức nhạy cảm khó dự đoán ->  Ký hiệu IS.

    Thí  dụ : với cefaclor: Streptococus:  S
    Enterococcus:  R
    H.Influenza   :  MS
    E.Coli           : IS.

    * Nội dung chi tiết bài viết vui lòng bạn tải file .pdf

    Kết nối với Bệnh viện Từ Dũ