Thuốc tránh thai viên uống dạng phối hợp được sử dụng để ngừa thai. Estrogen và progestin là hai hormone giới tính nữ. Sự kết hợp giữa estrogen và progestin giúp ngăn chặn sự rụng trứng, thay đổi niêm mạc của tử cung để ngăn ngừa thai nhi phát triển và thay đổi chất nhầy ở cổ tử cung để ngăn chặn tinh trùng xâm nhập. Thuốc tránh thai là một phương pháp ngừa thai rất hiệu quả, nhưng nó không ngăn chặn sự lây lan của virus HIV (virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch AIDS) và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
Các nguy cơ đối với thai nhi nếu điều trị thuốc ức chế bơm proton trong khi mang thai là gì? Nên tránh những loại thuốc này hoàn toàn ở phụ nữ mang thai không?
* Phân loại huyết áp theo JNC-7 và NHBPEP * Đặc tính dược động học của một số thuốc chống tăng huyết áp * Thuốc chống tăng huyết áp mức độ nhẹ và trung bình dùng trong thai kỳ * Thuốc dùng kiểm soát nhanh tăng huyết áp nặng trong thai kỳ * Thuốc chống tăng huyết áp có thể dùng trong giai đoạn cho con bú sữa mẹ
Caffein là một chất kích thích được tìm thấy trong nhiều loại thức ăn, đồ uống và một số loại thuốc. Caffein tự nhiên có nguồn gốc thực vật được cho vào thức ăn và đồ uống để tạo hương vị. Cà phê là nguồn caffein chính đối với hầu hết chúng ta.
Viên sủi, khác với viên nén thông thường, phải hòa tan vào ly với lượng nước thích hợp, đợi bọt sủi hết mới uống. Thuốc viên sủi là loại thuốc đặc biệt có nhiều tiện dụng, nhưng cần thận trọng trong sử dụng.
Acid folic là vitamin tổng hợp nhóm B. Trong cơ thể acid folic được khử thành tetrahydrofolat là coenzyme của nhiều quá trình chuyển hoá trong đó có tổng hợp các nucleotide có nhân purin hoặc pyrimidin; do vậy ảnh hưởng đến quá trình tổng hợp DNA. Khi có vitamin C acid folic được chuyển thành leucovorin là chất rất cần thiết cho sự tổng hợp DNA và RNA. Acid folic là yếu tố không thể thiếu được cho tổng hợp nucleoprotein và tạo hồng cầu bình thường.
Mục đích của điều trị bằng các thuốc kháng HIV (thuốc điều trị ARV) là ức chế sự nhân lên của virut và kìm hãm lượng virut trong máu ở mức thấp nhất; phục hồi chức năng miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội, cải thiện chất lượng sống và giảm đáng kể tỷ lệ tử vong ở người nhiễm HIV.