Một khi chương trình tầm soát hội chứng Down dựa vào chỉ số sinh hóa và độ mờ da gáy được thiết lập và thực hiên phù hợp y văn, quyết định đưa những marker mới cũng cần đươc xem xét kĩ dựa vào những yếu tố đánh giá sau:
Ở những thai kỳ nguy cơ thấp, việc siêu âm hàng loạt các bệnh nhân ở tam ca nguyệt 3 là không có lợi ích gì. Ngược lại, có 1 số giá trị khi khám hệ tim mạch ngoại vi ở những thai kỳ có bằng chứng suy bánh nhau.
Việc siêu âm rộng rãi và thường quy những thai 12 tuần là dựa trên tính hiệu quả của thử nghiệm này trong việc tầm soát hội chứng Down và những bất thường nhiễm sắc thể khác. Do những tiến bộ trong di truyền học phân tử, ngày nay có thể tầm soát hội chứng Down và những bất thường nhiễm sắc thể thường gặp (trisomies 13 và 18) bằng cách sử dụng 1 mẫu máu của mẹ.
Trong hơn 30 năm qua, nhiều ấn bản nghiên cứu đã viết về giá trị của việc siêu âm tuần 20 để nhận ra những thai nhi có bất thường nhiễm sắc thể. Riêng với hội chứng down, việc nhận biết này đặc biệt khó khăn vì hầu hết các trường hợp đều không có những bất thường cấu trúc quan trọng.
Sự tiến bộ của các phương pháp sàng lọc không xâm lấn trisomy 21 (Hội chứng Down) và các rối loạn lệch bội nhiễm sắc thể khác trong quý 1 và quý 2 của thai kỳ đã làm thay đổi sâu sắc các chỉ định chẩn đoán trước sinh trong thập kỷ qua.
Phân tích dưới kính hiển vi các nhiễm sắc thể của tế bào nuôi cấy được xem là phương pháp chuẩn để chẩn đoán di truyền tế bào trước sinh từ lần đầu được áp dụng năm 1966 và phân tích band nhiễm sắc thể thường quy vào đầu những năm 1970.
Thực hiện sinh thiết gai nhau chẩn đoán lệch bội nhiễm sắc thể cho các thai phụ có nguy cơ cao qua sàng lọc ở 3 tháng đầu.
Tiền sản giật có ảnh hưởng đến khoảng 2-4% số thai, là nguyên nhân chính gây tử vong mẹ và con. Không có phương pháp nào chứng minh hiệu quả của việc dự phòng tiền sản giật. Tuy nhiên, qua 50 năm nghiên cứu đã cho thấy việc khám thai thường xuyên giúp phát hiện các thai kỳ nguy cơ cao trong tiền sản giật để có thể cải thiện tình trạng cao huyết áp.
Mổ lấy thai là can thiệp ngoại khoa thực hành nhiều nhất trên toàn thế giới. Chúng ta nhận thấy mặc dù phương thức kỹ thuật thay đổi nhiều giữa các phẫu thuật viên và ê kíp. Trong bài viết này, y văn mới được phân tích nhằm cố gắng xác định quy trình tốt nhất. Bàn về kỹ thuật mở thành bụng và cơ tử cung, kỹ thuật của Joel-Cohen (hoặc Stark) có vẻ ưu thế, cụ thể là mở bằng tay.
Trong vài thập kỷ, tỷ lệ mắc nhau cài răng lược tăng lên đáng kể (khoảng 1/2000-2500 ca sanh). Sự gia tăng này liên quan với tăng tỷ lệ mổ lấy thai trong 30 năm trở lại đây.