Băng huyết sau sinh (BHSS) là biến chứng rất thường gặp, xảy ra khoảng 5 – 10% phụ nữ. Tại Pháp, băng huyết sau sinh nặng chiếm 1% các trường hợp sau sinh và là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong mẹ (18%) và tàn tật nghiêm trọng. Đờ tử cung là nguyên nhân hàng đầu của BHSS (60%) và tỷ lệ tăng cao tại nhiều nước. Có nhiều nguy cơ gây BHSS đã được mô tả, tuy nhiên chỉ lý giải được một phần nhỏ và không giải thích được sự gia tăng tỷ lệ BHSS do đờ tử cung.
Thai quá ngày theo định nghĩa là khi tuổi thai từ 42 tuần trở lên (294 ngày tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh chót, hoặc quá ngày dự sinh 2 tuần). Đánh giá chính xác tuổi thai là then chốt để chẩn đoán. Mặc dù một số trường hợp thai quá ngày là do tính sai ngày dự sinh, nhiều trường hợp là do thai kỳ kéo dài thực sự. Tần suất của thai quá ngày ước lượng khoảng 7%.
Dựa vào một nghiên cứu nhỏ, có đánh giá về việc duy trì xoa bóp tử cung sau xử trí tích cực giai đoạn 3 chuyển dạ, các tác giả kết luận rằng việc xoa bóp tử cung này có tác dụng giúp giảm thiểu lượng máu mất trung bình. Tuy nhiên, lợi ích này của xoa bóp tử cung nên được cân nhắc về sự khó chịu cũng như đau của người mẹ.
Hiện nay, các chuỗi xung MR thông thường đã được làm phong phú thêm bởi kỹ thuật hình ảnh MR bao gồm diffusion tensor imaging (DTI) và tractography trong tử cung (Bui et al., 2006; Kasprian et al., 2008), MR phổ (Pugash et al., 2009) và resting state functional BOLD MRI.
Vì phổi suy yếu có ảnh hưởng nghiêm trọng lên tỉ lệ bệnh và tỉ lệ chết sau sinh, hệ hô hấp thai là một trong những sự quan tâm chính của các nghiên cứu hình ảnh trước sinh. Đặc biệt là trước sự tiến bộ của việc lựa chọn điều trị trong tử cung và sự cải thiện trong việc hỗ trợ hô hấp cho sơ sinh và sanh non dẫn đến sự cần thiết có một thể thức chẩn đoán hình ảnh trước sanh thích hợp, cung cấp nhiều thông tin về cấu trúc và phân tử.
Theo sự biến đổi hình thái nhanh của não thai nhi trong suốt tam cá nguyệt hai và ba của thai kì, sự đánh giá cấu trúc của những não nghi ngờ có bệnh lý trong nghiên cứu hình ảnh cắt ngang có thể tạo một thách thức khó trong chẩn đoán. Đánh giá chung não thai trên siêu âm chủ yếu tập trung vào đánh giá kích thước và hình dạng của não thất bên. Thường não thất bên không đối xứng hoặc dãn lớn là dấu hiệu dành riêng trên siêu âm, điều này nói chung không đặc hiệu và không nhất thiết có liên quan đến các dị tật nghiêm trọng của não.
Cho đến nay sự nghiên cứu trên thực nghiệm về sự phát triển của não thai là lĩnh vực dành cho siêu âm thần kinh (Malinger và cs, 2005). Nhờ vào sự cải tiến kĩ thuật của MRI thai và sự phát triển của những chuỗi xung nhanh, MRI thai có khả năng nhìn thấy ngay cả những cấu trúc tinh tế của não thai từ lúc thai sớm ở 18 tuần. Ngoài ra, chuỗi xung T2W TSE, T1, FLAIR, steady state free precession và echo planar có thể cung cấp thêm thông tin về các đặc điểm hoá học của hệ thần kinh trung ương thai (Brugger và cs, 2006).
Chúng ta có thể đặt ra các tiêu chuẩn cho các dị tật tim bẩm sinh phức tạp mà hoặc phải lượng giá nhanh tiên lượng sống còn hoặc chuẩn bị cho một cuộc phẫu thuật khó khăn hay có thể không hoàn chỉnh.
Bệnh lý tim bẩm sinh chiếm tần suất 8 trên 1000 ca sanh tại Pháp (hay chiếm 8 phần ngàn các ca sanh). Trong số các dị tật bẩm sinh, thường gặp nhất là tim bẩm sinh, hiện tại chiếm khoảng 30% các trường hợp bất thường phát hiện trước sinh.
15 năm thực hiện việc đo độ mờ da gáy và các chỉ số sinh hóa đã cho khả năng phát hiện 90% hội chứng Down với tỉ lệ dương tính giả 5%. Thai kì mắc hội chứng Down có độ mờ da gáy cao (2.1 MoM) ,nồng độ BHCG tăng (1.76 MoM) và PAPP-A giảm (0.45MoM).