Sử dụng các Progesterons mới trong phụ khoa và ngừa thai
Ds. Nguyễn Thị Thúy Anh Khoa Dược - BV Từ Dũ
Giới thiệu
Nhiều thuốc mới chứa hormone dùng trong phụ khoa được giới thiệu trong vài năm gần đây. Một số chế phẩm thuận tiện đối với người sử dụng nhờ hệ thống phóng thích thuốc được cải tiến, đổi mới như que cấy, miếng dán, dụng cụ trong tử cung và vòng âm đạo. Tuy nhiên, chỉ vài progestogens mới sẵn có trên thị trường trong 5 đến 10 năm vừa qua. Các thuốc trên có thật sự khác biệt và mang lại nhiều lợi ích đối với phụ nữ cần tránh thai hiệu quả, điều trị các rối loạn phụ khoa, làm giảm triệu chứng vận mạch thời kỳ mãn kinh. Vấn đề này sẽ được bàn sâu hơn trong bài này với các thông tin liên quan trên lâm sàng, nhưng không nhằm mô tả chi tiết các phân tử steroid khác nhau.
Tác dụng của progestogens
Progesterone chuyển hóa nhanh chóng và các liều được lặp lại thường xuyên nếu dùng đường tiêm, đặt âm đạo hay uống. Các progestogens tổng hợp có ưu điểm dùng ít lần hơn, nhưng cũng giống như progesterone, các progestogens tổng hợp sau khi gắn kết với các thụ thể progesterone nội bào, có tác động bảo vệ nội mạc tử cung và ức chế rụng trứng tùy theo loại progestogen. Cơ chế tác dụng tại mô đích rất phức tạp, các công thức hóa học khác nhau có khả năng tác động (kích thích hay ức chế) lên các thụ thể khác như thụ thể androgen, oestrogen, glucocorticoid và mineralocorticoid.
Phân loại các progestogens
Đa số các progestogens đều là dẫn xuất của testosterone hay progesterone, mặc dù drospirenone, một progestogen mới ra đời, có nguồn gốc từ 17 alpha-spirolactone. Mỗi progestogen (nhất là hoạt chất trong viên tránh thai phối hợp đường uống) thường được sắp xếp theo năm/thập niên giới thiệu – đó là các hợp chất thế hệ thứ nhất, thứ hai và thứ ba (Bảng 1). Điều này không hữu ích vì có thể dẫn đến hàm ý các hoạt chất cùng thế hệ có cấu trúc hóa học tương tự và có các đặc tính liên quan với nhau. Một chọn lựa khác là phân loại các progestogens theo nhóm sinh hóa (Bảng 2). Phương pháp này cũng không ưu việt vì chỉ cần vài thay đổi nhỏ ở phân tử steroid có thể gây những biến đổi lớn về chuyển hóa đối với ái lực gắn kết thụ thể steroid, dẫn đến các tác động khác nhau đáng kể. Các nhà sản xuất đang trên đường phát triển các progestogens “tinh khiết hơn” và gắn chuyên biệt với thụ thể progesterone nhằm tăng cường những đặc tính có lợi và giảm thiểu các tác dụng phụ như hoạt tính androgen (Bảng 3).
Trong giai đoạn năm 2018-2021, Mạng lưới An toàn Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (NHSN) đã báo cáo rằng 0,4% (n = 1.951) các ca nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện (HAI) ở Hoa Kỳ nguyên nhân do Acinetobacter spp. gây ra. Trong số này có 28-45% không nhạy cảm với kháng sinh carbapenem (tức là trung gian hoặc đề kháng).
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT), BLING III cung cấp bằng chứng việc sử dụng truyền liên tục (CI) so với truyền ngắt quãng piperacillin/tazobactam và meropenem trên bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Điều này được củng cố bởi một đánh giá tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp (SRMA) của 18 RCT về CI hoặc truyền kéo dài (EI) (thời gian từ 3–4 giờ) các kháng sinh beta-lactam. Thách thức hiện nay là chuyển đổi CI như một tiêu chuẩn chăm sóc cho bệnh nhân nặng bị nhiễm trùng huyết. Các cân nhắc chính bao gồm các vấn đề sau:
Các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Alabama tại Birmingham, đã tiến hành phân tích dữ liệu thứ cấp trên đối tượng phụ nữ tăng huyết áp mạn tính trong thai kỳ, so sánh với phương pháp điều trị chính. Tăng huyết áp mạn tính nhẹ trong nghiên cứu được định nghĩa là huyết áp 140-159/90-104 mmHg trước 20 tuần của thai kỳ.
Nhiễm trùng huyết – sepsis - vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính 11 triệu người tử vong mỗi năm do tình trạng này. Các yếu tố chính của việc quản lý sepsis là chẩn đoán sớm, liệu pháp kháng sinh kinh nghiệm sớm và phù hợp, với biện pháp kiểm soát nguồn gây bệnh thích hợp và bảo tồn chức năng các cơ quan.
Sự ra đời của vắc-xin giúp chúng ta chủ động phòng chống các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tổ chức y tế thế giới ước tính chương trình tiêm chủng hiện nay giúp ngăn ngừa 3,5-5 triệu ca tử vong mỗi năm do các bệnh như bạch hầu, uốn ván, ho gà, cúm và sởi [2].
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lý trao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định.
Chế độ ăn hợp lýtrao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Ung thư nội mạc tử cung là loại ung thư phổ biến đứng hàng thứ sáu ở phụ nữ trên thế giới, bệnh thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh, với độ tuổi từ 60 trở lên. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng, bệnh bắt đầu từ tế bào nội mạc tử cung và lớp nội mạc tăng sinh không đồng nhất. Hầu hết, các trường hợp được chẩn đoán ở giai đoạn sớm và thường được điều trị bằng phẫu thuật và/hoặc xạ trị, đạt tỷ lệ sống sau 5 năm từ 80% đến 90%. Tuy nhiên, nếu được chẩn đoán giai đoạn tiến triển, tỷ lệ sống sót sau 5 năm giảm dưới 20%.
Giữ bàn tay, bàn chân mát mẻ tiếp xúc với nước mát (ngâm, tắm, hoặc bơi), tránh nóng/ nước nóng quá mức, không mang tất, găng tay hoặc giày dép quá chật.
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định.
Chế độ ăn hợp lýtrao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Hoạt động mỗi ngày đi bộ ngắn, tập các bài tập nhẹ nhàng. Giữ tinh thần ổn định
Chế độ ăn hợp lýtrao đổi thêm với bác sĩ về dinh dưỡng bổ sung (thực phẩm giàu protein như thịt, cá, phô mai, sữa chua...). Uống nhiều nước, trừ khi có hướng dẫn khác.
Phòng ngừa các triệu chứng bệnh thần kinh ngoại vi:
Ngăn ngừa té ngã: nhờ người giúp đỡ khi di chuyển, không để các tấm thảm ở lối đi, đặt các thanh vịn trên tường và nhà vệ sinh để bám và giữ thăng bằng, trải thảm ttrong nhà vệ sinh để tránh trơn trượt, đứng dậy từ từ sau khi ngồi hoặc nằm và khi chóng mặt.
Lưu ý các hoạt động tại nhà bếp: tránh bị bỏng, cẩn thận khi dùng dao và các vật sắc nhọn.
Giảm tổn thương gây chảy máubảo vệ da, kiểm tra mỗi ngày, dưỡng ẩm, không để khô, bong tróc, chảy máu, không đi chân trần, tránh sử dụng các dụng cụ sắt nhọn như kéo, dao hoặc kim gây chấn thương, va đập. Sử dụng đồ chải răng mềm, tránh tổn thương niêm mạc miệng.
Chăm sóc vết thương chảy máu hoặc bầm tím ấn chặt vùng chảy máu bằng vải sạch, tiếp tục đến khi máu ngừng chảy. Chườm đá lên vùng bầm tím.
Ngăn da bị khô và ngứa: sử dụng kem dưỡng ẩm cho da, tránh các sản phẩm có chứa cồn và hương liệu, tắm bằng nước ấm, có thể chườm khăn mát lên vùng da bị khô, ngứa.
Tránh tiếp xúc với ánh nắng trực tiếp: sử dụng kem chống nắng, ngăn da bị cháy nắng bằng cách mặc áo dài tay, quần dài, mũ rộng vành.