Xuất huyết tử cung bất thường (XHTCBT) cấp tính hoặc mãn tính được định nghĩa là sự chảy máu từ thân tử cung có bất thường về thể tích, tần số hoặc thời gian chảy máu và xảy ra khi không mang thai. Theo ý kiến chuyên gia, XHTCBT cấp tính là tình trạng chảy máu nặng cần phải can thiệp tức thời để ngăn ngừa mất máu. XHTCBT cấp tính có thể do nguyên phát hoặc do XHTCBT mãn tính (XHTCBT trong hầu hết 6 tháng gần đây).
Mãn kinh là tình trạng mất kinh liên tiếp 12 tháng. Trong thời kỳ mãn kinh, sự thiếu hụt estrogen có thể gây ra các triệu chứng như bốc hỏa, đổ mồ hôi, mất ngủ, khô âm đạo và cảm giác khó chịu. Liệu pháp nội tiết trong thời kỳ mãn kinh là can thiệp hiệu quả nhất để điều trị triệu chứng của mãn kinh cho hầu hết phụ nữ.(4)
Đóng ống động mạch tự phát thường phổ biến. Nếu hội chứng suy hô hấp đáng kể hoặc hệ thống cung cấp oxy suy yếu thường phải điều trị thận trọng. Indomethacin tĩnh mạch (hoặc chế phẩm mới hơn là Ibuprofen tĩnh mạch) thường cho hiệu quả trong đóng ống động mạch nếu được chỉ định trong 10-14 ngày đầu tiên của cuộc sống. Một lựa chọn khác là dùng Catheter hoặc thắt ống động mạch bằng can thiệp ngoại khoa.
Folic acid là vitamin B cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển bình thường của mọi tế bào trong cơ thể. Nếu phụ nữ trong độ tuổi sinh sản uống 400 microgam acid folic mỗi ngày trước khi mang thai và trong giai đoạn đầu của thai kỳ, nó có thể giúp làm giảm nguy cơ dị tật bẩm sinh trên não và tủy sống được gọi là dị tật ống thần kinh. Ống thần kinh là một phần của đứa trẻ đang phát triển và sẽ trở thành não và tủy sống. Dị tật ống thần kinh có thể xảy ra khi ống thần kinh không đóng hoàn toàn.
Tình trạng đề kháng kháng sinh tiếp tục gia tăng trên toàn cầu, các chủng đa kháng thuốc đã đặt ra nhiều thách thức đối với nhà lâm sàng do thiếu các kháng sinh điều trị có hiệu quả. Các chủng Enterococcus là nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm trùng mắc phải bệnh viện và là tác nhân gây nhiễm trùng huyết bệnh viện đứng hàng thứ hai tại Hoa Kỳ. Nhiễm khuẩn do Enterococcus đề kháng với vancomycin (VRE) gia tăng nhanh chóng và trở thành mối quan tâm chủ yếu, nhất là ở các bệnh nhân dễ bị tổn hại.
Sử dụng thuốc hợp lý cho phụ nữ trong thời kỳ cho con bú luôn là một vấn đề cần quan tâm, mặc dù tình trạng xuất hiện tác dụng không mong muốn ở trẻ bú mẹ sau khi người mẹ dùng thuốc thường hiếm gặp, nhưng để có lời khuyên tốt nhất cho các bà mẹ thì thông tin về cách sử dụng thuốc đúng và hợp lý với các thuốc thường gặp trong giai đoạn đặc biệt này là rất quan trong.
Nội dung: Tổng kết công tác báo cáo Phản ứng có hại của thuốc (ADR) năm 2014 từ các cơ sở khám chữa bệnh của 63 tỉnh thành trong cả nước.
Tổng số báo cáo ADR trong năm 2014 tại Bệnh viện Từ Dũ từ các khoa phòng là
110 báo cáo, là một trong 10 bệnh viện báo cáo ADR nhiều nhất năm 2014 trên cả nước. Số lượng báo cáo ADR năm 2014 giảm 06 báo cáo so với số lượng báo cáo ADR năm 2013 (116 báo cáo)
Không giống như cơn bốc hỏa có thể tự hết trong một khoảng thời gian, các triệu chứng teo âm đạo và đường tiểu dưới thường tiến triển, kéo dài trong nhiều năm và đòi hỏi phải có sự điều trị. Tỷ lệ khô âm đạo tăng sau khi mãn kinh, gây các triệu chứng ngứa, nóng rát và đau khi giao hợp. Trong khi lên đến 40% phụ nữ sẽ gặp các triệu chứng này nhưng chỉ có số ít người (khoảng 25% ở các nước phương Tây) tìm kiếm sự trợ giúp về y tế. Lý do không chỉ là do thiếu kiến thức mà còn do những tác dụng phụ phổ biến của phương pháp hormone thay thế (HRT) và nhận thức sai lầm rằng điều trị tại chỗ của teo âm đạo tương tự như HRT. Các lý do khác có thể là sự e ngại khi trao đổi về các vấn đề như vậy.
- Gây tê từng lớp để mổ và cả làm giảm đau sau mổ.
- Phong bế thân thần kinh, đám rối thần kinh để mổ.