Khoa Chẩn Đoán Hình Ảnh, Đại học Y khoa Vienna, Áo
Hiện nay, các chuỗi xung MR thông thường đã được làm phong phú thêm bởi kỹ thuật hình ảnh MR bao gồm diffusion tensor imaging (DTI) và tractography trong tử cung (Bui et al., 2006; Kasprian et al., 2008), MR phổ (Pugash et al., 2009) và resting state functional BOLD MRI.
DTI và tractography:
Tuy nhiên, tình trạng thai như đa ối hoặc ngôi mông nhìn chung đầu thai có khuynh hướng cử động nhiều, thường làm cho dữ liệu hình ảnh không đầy đủ. Ngoài ra, tác động của cơ hoành mẹ trong hô hấp thì lớn hơn ở thai ngôi mông. Ngược với tình trạng này, thiểu ối hoặc ngôi đầu sẽ giảm tác động âm tính của cử động thai lên sự thành công của DTI.
Do sự hiện diện nhiều lần của ảnh giả do cử động, DTI trong tử cung vẫn còn được xem như thực nghiệm. Tuy nhiên, trong vài trường hợp nào đó, nó đã cung cấp những thông tin có giá trị về cấu trúc của sự phát triển thai, thúc đẩy người kiểm tra đánh giá ảnh hưởng của những dấu hiệu hình ảnh khi còn trong tử cung lên sự phát triển sau sanh để hiểu ý nghĩa chức năng của nó.
MR phổ:Một phương pháp MR hình ảnh thần kinh tiến bộ nhiều hứa hẹn trong việc đánh giá não thai trong thực nghiệm là 1H spectroscopy (Pugash et al., 2009). Dựa vào thời gian thu lâu của chuỗi xung phổ, kĩ thuật này đặc biệt nhạy với cử động thai vì vậy, dẫn đến kết quả không rõ ràng. Tuy nhiên, nếu thành công, nó cung cấp thông tin có giá trị về sự có mặt và số lượng các chất chuyển hóa trong não thai bao gồm myoinositol, choline, creatine, N-acetyl aspartate, lactate và lipids. Khi đánh giá kết quả MR phổ của não, cần phải có kiến thức, vì phổ bình thường thai không thể so sánh với bất kì phổ nào với não người lớn. Trong tương lai, kỹ thuật này có thể giúp cải thiện chẩn đoán trước sanh các rối loạn chuyển hóa và xa hơn nữa cho việc tiên lượng các tổn thương não thai.
Functional resting state BOLD fMRI:
Sự phát triển gần đây nhất của lĩnh vực MR trước sanh là ứng dụng các chuỗi xung MR chức năng. Kỹ thuật này dựa trên tương phản của mức độ phụ thuộc nồng độ oxy máu (BOLD), điều này cho phép phát hiện không xâm lấn hoạt động tăng tưới máu độc lập của vùng nào đó trên não. Vì não thai phần lớn là hoạt động tự phát, các kỹ thuật hình ảnh não chức năng, có thể phát hiện sinh lý thần kinh tương quan của vùng hoạt động này, giúp chúng ta càng hiểu về sự phát triển não thai bình thường và não bệnh lý. Ở não người lớn, dao động tự phát trên BOLD MRI lặp lại và có tính sinh sản được tổ chức hóa ở những mạng lưới chức năng đặc biệt và chuyển đến các mạng lưới ở trạng thái nghỉ (Schopf et al., 2010). Gần đây, chúng ta có thể vẽ được bản đồ của những mạng lưới này trong não thai và minh họa không xâm lấn sự liên kết chức năng giữa những cấu trúc não quan trọng gồm vùng subplate và đồi thị.
Trích Tài liệu HN Việt - Pháp lần 11, năm 2011