BS. Yeong Cheng Toh
Giám đốc phân nhánh điều trị hiếm muộn, Tập đoàn Thompson, Singapore
Từ năm 1878, hàng trăm ngàn trẻ em đã được sinh thành công nhờ vào kết quả của thụ tinh trong ống nghiệm. Ở Mỹ, thụ tinh ống nghiệm chiếm 1% trong số những trẻ được sinh ra. Ở Singapore, số trẻ được thụ tinh và sinh ra nhờ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản gia tăng từ khoảng 150 mỗi năm (năm 1983) đến 1149 (năm 2009).
Kích thích buồng trứng có kiểm soát (COH) được xem như là yếu tố quan trọng trong thành công của chuyển phôi trong ống nghiệm (IVF-ET) (1). Tuy nhiên, dù có cải tiến đáng kể trong phác đồ kích thích buồng trứng và quy trình thụ tinh, tỷ lệ thụ thai bởi cấy phôi vẫn ở tỷ lệ gần 15%
Trong khuôn khổ bài viết, dựa trên y học chứng cứ, chúng tôi cố gắng đánh giá những y văn hiện thời: từ giai đoạn tiền điều trị đến giai đoạn hỗ trợ hoàng thể trong chu trình thụ tinh trong ống nghiệm để gia tăng thành công của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Khảo sát toàn diện và nhiều chiến lược điều trị được đề ra như nội soi buồng tử cung, tạo tổn thương nhỏ khu trú ở nội mạc tử cung; thay đổi phác đồ kích thích, chuyển phôi nang, hỗ trợ phôi thoát màng, chẩn đoán tiền cấy phôi lệch bội nhiễm sắc thể, tuy nhiên chưa có chiến lược nào cho thấy lợi thế vượt trội.
Phương thức mới hơn như châm cứu và sử dụng pipelle tạo tổn thương nhỏ khu trú ở nội mạc tử cung đang được khảo sát.
* Trích Tài liệu HN Sản Phụ khoa Việt - Pháp - Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 12, ngày 10-11/05/12Files Attachment