DS. Nguyễn Thị Thúy Anh (Dịch)
K. Dược - BV Từ Dũ
Tổng quan
Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy cúm thường xảy ra nặng hơn ở phụ nữ mang thai theo ghi nhận từ các đợt dịch trước và các nghiên cứu ở các thai phụ mắc cúm mùa. Nhiều trường hợp tử vong có liên quan đến cúm xảy ra trong các đợt dịch bệnh 1918-1919 và 1957- 1958. Các biến chứng thai kỳ bao gồm tăng tỷ lệ sẩy thai và sanh non, nhất là đối với phụ nữ bị viêm phổi. Các báo cáo ca và một số nghiên cứu dịch tễ học được thực hiện trong khoảng thời gian giữa các đợt xảy ra dịch cho thấy thai kỳ làm tăng nguy cơ mắc các biến chứng ở mẹ và có thể gia tăng nguy cơ xảy ra biến chứng trong giai đoạn chu sinh.
Biển hiện lâm sàng
Thai phụ nhiễm cúm A/H1N1 có các triệu chứng cấp tính ở đường hô hấp tương tự với cúm mùa (ví dụ: ho, đau họng, sổ mũi) và sốt. Các triệu chứng khác bao gồm đau cơ và khớp, nhức đầu, mệt mỏi, nôn ói và tiêu chảy. Nhiều thai phụ sẽ có các biểu hiện lâm sàng điển hình của bệnh cúm không biến chứng. Tuy nhiên, bệnh cảnh có thể tiến triển nhanh chóng ở một số thai phụ, và có thể gây nhiễm trùng thứ phát kể cả viêm phổi. Suy thai có liên quan đến bệnh nặng ở mẹ có thể xảy ra. Các báo cáo ca về biến chứng trong thai kỳ và tử vong mẹ có liên quan đến tình trạng bệnh nặng. Thai phụ nghi nhiễm virus cúm A/H1N1 cần được thử test. Tuy nhiên, không nên trì hoãn việc điều trị cho đến khi có kết quả xét nghiệm và không nên từ chối điều trị nếu không có thử test. Bởi vì ,thuốc kháng virus có hiệu lực cao nhất khi bắt đầu dùng sớm sau khi khởi phát các triệu chứng (trong vòng 2 ngày đầu tiên). Việc thử test không phải lúc nào cũng sẵn sàng trong một số tình huống và thường đợi vài ngày mới có kết quả xét nghiệm. Thầy thuốc cần biết rõ về sự lưu hành virus cúm H1N1 trong khu vực của mình và không nên chờ đợi kết quả thử test để bắt đầu điều trị cúm ở những phụ nữ đã có các triệu chứng điển hình của bệnh.
Điều trị và dự phòng
Điều trị sớm bằng thuốc kháng virus được khuyến cáo ở các thai phụ nghi ngờ nhiễm cúm. Virus cúm A/H1N1 hiện đang lưu hành nhạy cảm với các thuốc kháng virus ức chế neuraminidase như zanamivir (Relenza®) và oseltamivir (Tamiflu®), nhưng lại đề kháng với các thuốc kháng virus nhóm adamantane,amantadine (Symmetrel®) và rimantadine (Flumadine®). Oseltamivir dùng đường uống và được hấp thu toàn thân; ngược lại, zanamivir sử dụng ở dạng hít và ít hấp thu hơn. Chế độ liều dự phòng và điều trị của oseltamivir và zanamivir ở thai phụ giống như liều dùng cho người lớn mắc bệnh cúm. Thai kỳ không được xem là chống chỉ định sử dụng oseltamivir và zanamivir. Thai phụ có nguy cơ cao bị các biến chứng nặng do nhiễm virus cúm A/H1N1, và việc điều trị hoặc dự phòng với oseltamivir hay zanamivir đạt lợi ích cao hơn nguy cơ xảy ra do dùng thuốc kháng virus. Không có mối liên quan nào giữa việc dùng các thuốc này và các tác dụng có hại, mặc dù một số phản ứng đã được báo cáo ở các thai phụ dùng thuốc. (Xem thêm thông tin về các thuốc kháng virus cúm tại CDC Interim Guidance on Antiviral Recommendations for Patients with Novel Influenza A (H1N1) Virus Infection and Their Close Contacts. )
Điều trị sốt
Tăng thân nhiệt là một trong các phản ứng của bệnh cúm được nghiên cứu nhiều nhất. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng tăng thân nhiệt ở mẹ trong 3 tháng đầu thai kỳ gia tăng gấp đôi nguy cơ dị tật ống thần kinh và có thể có liên quan đến các dị tật bẩm sinh khác. Vài dữ liệu cho thấy các thuốc hạ sốt và/hay đa sinh tố chứa acid folic có thể làm giảm nhẹ nguy cơ dị tật bẩm sinh có liên quan đến sốt. Sốt trong lúc chuyển dạ được chứng minh là một yếu tố nguy cơ gây nguy hại cho trẻ sơ sinh, bao gồm co giật, bệnh lý não, liệt não, và tử vong sơ sinh. Sốt ở thai phụ cần được điều trị vì nguy cơ xảy ra cho thai nhi, mặc dù khó phân biệt giữa các tác động của nguyên nhân gây sốt và tăng thân nhiệt. Acetaminophen là lựa chọn tốt nhất để điều trị sốt trong thời kỳ mang thai.
Liều dùng của thuốc kháng virus trong điều trị
hoặc dự phòng nhiễm cúm A/H1N1
|
||||||
Nhóm |
Điều trị | Dự phòng | ||||
Oseltamivir | ||||||
Người lớn | Viên nang 75 mg x 2 lần mỗi ngày, trong 5 ngày |
Viên nang 75 mg x1 lần mỗi ngày | ||||
Zanamivir |
||||||
Người lớn | 2 nhát xịt 5mg (tổng cộng 10 mg) x 2 lần mỗi ngày, trong 5 ngày | 2 nhát xịt 5mg (tổng cộng10 mg) x 1 lần mỗi ngày |
Các biện pháp khác giảm thiểu nguy cơ cho thai phụ
Cho đến hiện nay, chưa có vaccine để phòng ngừa nhiễm cúm A/H1N1, tuy nhiên, có thể giảm nguy cơ lây nhiễm cúm bằng cách áp dụng một số biện pháp làm giảm cơ hội tiếp xúc với nguồn bệnh qua đường hô hấp:
1. Rửa tay thường xuyên.
2. Hạn chế tiếp xúc với người bệnh.
3. Người bệnh nên ở nhà (trừ khi đi khám bệnh).
4. Người bệnh nên che miệng khi ho.
5. Tránh đến nơi đông người ở những vùng đang có dịch cúm A/H1N1, nếu có thể.
6. Sử dụng khẩu trang và mặt nạ đúng cách (see Interim Recommendations for Facemask and Respirator Use to Reduce Novel Influenza A (H1N1) Virus Transmission).
Lưu ý khi cho trẻ bú sữa mẹ
Trẻ không được bú mẹ dễ bị nhiễm trùng và mắc bệnh đường hô hấp so với các bé được bú sữa mẹ. Bà mẹ sau sanh không mắc bệnh cúm được khuyến khích cho con bú sữa mẹ càng sớm càng tốt.
Trẻ có nguy cơ mắc bệnh nặng khi nhiễm cúm A/H1N1 và không có nhiều thông tin về việc dự phòng ở trẻ. Nếu có thể, chỉ có những người không mắc bệnh cúm mới chăm sóc cho trẻ, kể cả việc cho trẻ bú hoặc ăn. Nguy cơ lây nhiễm virus cúm A/H1N1 qua sữa mẹ chưa được biết rõ. Tuy nhiên, các báo cáo nhiễm virus cúm theo mùa trong máu hiếm gặp, điều này chứng tỏ virus ít có nguy cơ qua sữa mẹ. Nên khuyến khích các bà mẹ bị cúm vắt sữa mẹ cho vào bình và những người khỏe mạnh trong gia đình sẽ giúp cho trẻ bú. Không chống chỉ định dùng thuốc kháng virus để điều trị hay dự phòng cúm trong thời kỳ cho con bú.
Chú ý rửa tay và che miệng khi ho, nhất là đối với bà mẹ nhiễm bệnh mà không có người nào khác chăm sóc bé. Bà mẹ có các triệu chứng giống bệnh cúm được khuyến cáo sử dụng khẩu trang khi chăm sóc và cho trẻ bú.
Theo
Centers for Disease Control and Prevention