banner-dh-vuot-can-cung-me-02.jpg

22/03/2016

Nhiễm trùng huyết do MSSA: Beta-lactam hay Vancomycin?

Ds Thân Thị Mỹ Linh – Khoa Dược
(lược dịch)

   Beta-lactam ưu thế hơn so với vancomycin để điều trị dứt điểm các bệnh nhiễm trùng máu gây ra bởi tụ cầu nhảy cảm methicillin (Methicillin susceptible Staphylococcus aureus - MSSA), theo một nghiên cứu hồi cứu lớn mới công bố. Tiến sĩ Jennifer S. McDanel từ Đại học Iowa và các đồng nghiệp công bố phát hiện của họ ngày 21/4/2015 trên tạp chí Clinical Infectious Diseases.

   Các nghiên cứu trước đó tìm mối liên quan giữa vancomycin với các bệnh nhân có tiên lượng xấu như tái phát, điều trị thất bại và chết, hiệu quả của liệu pháp điều trị theo kinh nghiệm vẫn chưa rõ ràng. Vancomycin thường được kê theo kinh nghiệm cho các bệnh nhân nghi ngờ có nhiễm trùng máu do S. aureus vì nó có tác dụng chống lại cả chủng nhạy cảm methicillin và chủng kháng methicillin.

   Tuy nhiên, đối với một bệnh nhân bị nhiễm MSSA, nhiều tổ chức y khoa trong đó có Hiệp hội các bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (Infectious Diseases Society of America) khuyến cáo nên chuyển sang sử dụng beta-lactam (ví dụ: cefazolin) hoặc penicillin kháng Staphylococcus (ví dụ: nafcillin hoặc oxacillin) khi kết quả phân lập cho biết nhiễm trùng do MSSA.

   Các nhà nghiên cứu đã phân tích dữ liệu 122 bệnh nhân cấy dương tính với MSSA tại một bệnh viện, những bệnh nhân này được chỉ định đơn trị một beta-lactam hoặc vancomycin, điều trị theo kinh nghiệm (n = 2659 và 3125) hoặc điều trị dứt điểm (n = 4698 và 935) trong thời gian 2003-2010.

   Các nhà nghiên cứu xác định điều trị theo kinh nghiệm bắt đầu 2 ngày cho đến  khi kết quả phân lập đầu tiên dương tính với MSSA; điều trị dứt điểm bắt đầu từ 4 đến 14 ngày sau khi kết quả phân lập đầu tiên dương tính với MSSA.

   Sử dụng theo kinh nghiệm beta-lactam đơn trị liệu không hiệu quả trên tỉ lệ tử vong 30 ngày so với vancomycin (HR, 1,03; KTC 95% , 0,89-1,20). tuy nhiên, điều trị dứt điểm một beta-lactam so với vancomycin có liên quan với sự sụt giảm đáng kể 35% tỉ lệ tử vong trong 30 ngày (HR 0,65; 95% CI, 0,52-0,80), việc sử dụng cefazolin hoặc một penicilin kháng Staphylococcus lợi ích mang lại cao hơn nữa (HR 0,57; 95% CI, 0,46-0,71).

   Các nhà nghiên cứu đã điều chỉnh các biến như tuổi, bệnh lý có lọc máu/bệnh lý thận giai đoạn cuối, điểm APACHE III và chỉ số Charlson Comorbidity. Các tác giả lưu ý rằng những phát hiện này có thể bị giới hạn bởi tuổi của dân số nghiên cứu (cao tuổi) và một số ca tử vong có thể không phải do MSSA.

Tài liệu tham khảo

http://www.medscape.com/viewarticle/843825